Tuần sanwww.tinvui.org
bantreconggiao@yahoo.com                                                                        

 

TIN VUIFlowchart: Document: Số 
137
18/05/2008
        

 

 

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               

 

 

 

Mục lục

Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi

“Tin vào Con của Người” là tin vào tình yêu Thiên Chúa.

NHÌN TRONG TÌNH YÊU TRÁI TIM CHÚA GIÊSU..

Đức TGM Nguyễn Văn Tốt, tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Costa Rica.

Tác Dụng Chuyến Tông Du Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.

Việc tôn trọng sự sống và phẩm giá con người đang lâm nguy.

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh về di dân.

ĐTC kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân động đất ở Trung Hoa.

Người Công giáo Trung quốc sau cơn động đất

Chính thức mở Hồ Sơ Phong Chân Phước cho Cha Theodore Foley người Hoa Kỳ.

Đức Giáo Hoàng Phân Ưu Cùng Miến Điện.

Đức Thánh Cha ban ơn Toàn Xá nhân dịp Năm Thánh Phaolô.

Từ Viện dưỡng lão Thị Nghè đến nhà thờ Martinô.

CHA GIUSE NGUYỄN VĂN CHỦ ĐẾN THĂM VÀ NÓI CHUYỆN VỚI CHỦNG SINH ĐẠI CHỦNG VIỆN HÀ NỘI.

Lễ an táng Đức Viện Phụ Châu Sơn - Đơn Dương Đà Lạt: Stephanô Trần Ngọc Hoàng.

Một linh mục Việt kiều với chương trình Mái Ấm Mẹ Việt Nam cho giáo xứ Bình Thuận.

Sứ điệp của Tòa Thánh Vatican gởi đến các tín đồ Phật giáo trong ngày lễ Vesakh.

Tìm hiểu về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (Vesak)

KỶ NIỆM 10 NĂM ĐHY GIOAN BAOTIXITA PHẠM MINH MẪN NHẬN GIÁO PHẬN..

Sống hiệp thông chia sẻ.

Đức Tin qua gặp gỡ.

VẬY MÀ KHÔNG VẬY..

MẸ LÀ NGUỒN CẬY TRÔNG..

Nhớ về Mẹ với tâm tình yêu mến, tháng 5/2008.

CHỨNG NHÂN ĐÊM LỄ HỘI GIA ĐÌNH 2007.

ĐỨC TIN VÀ HY VỌNG CỦA VỢ CHỒNG CÔNG GIÁO..

Tài liệu học tập chuẩn bị Đại hội Thánh Mẫu La Vang (13-15.8/2008):

MẸ MARIA, NHÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN..

BÀI 1: ĐỨC MARIA, THẦY DẠY ĐỨC TIN, ĐỨC CẬY VÀ ĐỨC MẾN..

CÂU CHUYỆN SUY TƯ..

BỨC HỌA “ĐÔI BÀN TAY”.

BỐ VÀ CON..

Đ Ô I Đ Ũ A..

ĐỌC SÁCH..

MẦU NHIỆM MÂN CÔI.

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác, góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự yêu thương đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi

Ga 3, 16-18

"Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa".

Đó là lời Chúa.

“Tin vào Con của Người” là tin vào tình yêu Thiên Chúa

Lái xe trên xa lộ Mỹ, đôi khi ta lấy làm lạ giữa những bảng quảng cáo đủ loại đủ cỡ hai bên đường lại có một bảng quảng cáo thật khác thường.  Trên tấm biển lớn, ta chỉ đọc thấy một chữ và một con số:  Gio-an 3:16.  Không hình ảnh.  Thật là đơn sơ.  Có lẽ anh chị em Tin-Lành sẽ hiểu ngay được bảng quảng cáo đó nói gì, trong khi nhiều người Công giáo lại mù tịt!  Vậy ta hãy đọc lại Tin Mừng Gio-an 3:16:  “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”  Đây là một định đề tóm tắt tất cả thần học Ki-tô giáo được thánh Gio-an khai triển trong các sách và thư của ngài.  Phụng vụ Lời Chúa lễ kính Thiên Chúa Ba Ngôi đã trích dẫn đoạn Tin Mừng này để mời gọi ta chiêm ngưỡng kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa.  Kế hoạch ấy có hai chiều kích:  Thiên Chúa hoạch định và mời gọi, còn con người đáp ứng và cộng tác.

1. Thiên ý nhiệm mầu, đó là kế hoạch yêu thương (Ep 1:3-14)

          Ta thường nghe nhiều người thắc mắc về việc Chúa tiền định.  Thánh Phao-lô cho ta câu trả lời:  Thiên Chúa chẳng tiền định điều gì cả, ngoại trừ có một điều, đó là “Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô.”  Khi hiểu về tiền định, ta thường có ý niệm rất tiêu cực và thụ động, cho rằng không thể cưỡng lại ý muốn của Thiên Chúa.  Nhưng thực ra không phải như thế.  Việc Thiên Chúa tiền định ở đây, tức là từ đời đời Người đã muốn, đã ao ước rằng con người sẽ mãi mãi làm con cái Người và sống trong mối ân nghĩa với Người, là một tiền định nảy sinh từ tình yêu của Người.  Mà tình yêu đích thực thì luôn tôn trọng tự do của đối tượng và không bao giờ ép buộc cả.  Thiên Chúa thực sự yêu ta, nhưng Người cũng thực sự để ta được tự do muốn đáp lại hay không tùy ý, chứ Người không tiền định một cách độc đoán.  Do đó, thánh Gio-an đã nói thẳng đến tình yêu là động lực khiến Thiên Chúa thấy phải làm một điều gì đó ích lợi cho con người.

          Khi cha mẹ sắp xếp một kế hoạch cho tương lai của con cái, điều tiên quyết họ lấy làm căn bản là vì yêu thương con cái.  Yêu thương con cái nên muốn cho chúng có một tương lai tốt đẹp.  Bởi vậy, có điều kiện thì họ cố động viên con cái ráng học làm bác sĩ, kỹ sư.  Còn điều kiện eo hẹp thì cũng mong chúng có một nghề chắc chắn để nhất nghệ tinh nhất thân vinh.  Thiên Chúa yêu ta, yêu còn hơn cả cha mẹ yêu con cái.  “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?  Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15). Vì không quên được ta, Thiên Chúa muốn ta mai sau được ở bên Người mãi mãi.  Đó là lý do độc nhất khiến Thiên Chúa tiền định cho ta được làm nghĩa tử của Người.  Người đưa ra một kế hoạch để thực hiện điều Người đã tiền định.  Thánh Phao-lô đã nôm na gọi kế hoạch ấy là “kế hoạch yêu thương.”  Mà kế hoạch yêu thương này chẳng có lợi gì cho Thiên Chúa, bởi vì đó là kế hoạch do tình yêu vô điều kiện của Người, không đòi hỏi hoặc đổi chác điều gì, nhưng chỉ để có lợi cho ta mà thôi.  Người chỉ muốn ta lấy tình yêu đáp lại tình yêu.  Người ban cho ta Con Một làm bảo chứng tình yêu của Người và Người muốn ta nhận Ân Sủng ấy bằng cách “tin vào Con của Người.”  Thế thôi.

2. Thiện ý của Thiên Chúa: sai Con Một đến  không phải để lên án, nhưng để cứu độ ta

          Sau khi trình bày rõ ràng kế hoạch của Thiên Chúa, thánh Gio-an cho ta biết cách thức Thiên Chúa sẽ thi hành kế hoạch.  Tâm lý của đứa con phạm lỗi là khi thấy cha mẹ đến thì lấm la lấm lét và muốn tránh mặt vì sợ bị la mắng.  Tổ tông loài người đã làm như vậy trong vườn Địa đàng (St 3:8-10).  Thiên Chúa đã lên án A-đam.

          Nhưng lần này, Thiên Chúa không nghiêm khắc như vậy nữa.  Người nói rõ thiện ý của Người.  Mục đích Thiên Chúa đến với nhân loại qua Con Một Người không phải để lên án, nhưng để cứu vớt, không phải để xét xử, nhưng để mời gọi nhân loại trở về trong tình yêu của Người.  Con đường trở về chính là Chúa Giê-su Ki-tô, đường dẫn ta đến với Chúa Cha (Ga 14:6).  Thiên Chúa muốn dùng Con Một Người để cứu độ ta.  Người sẽ làm gì với Con Một Người, đó là quyền của Người.  Thánh Gio-an sử dụng từ “sai” để diễn tả cách Thiên Chúa dùng Con Một Người.  Chắc chắn “sai đến” không chỉ có nghĩa là bảo ai tới đâu, nhưng là thi hành một sứ mệnh, cho dù phải chu toàn với một giá đắt.

          Vậy để chu toàn sứ mệnh cứu độ do Chúa Cha trao phó, Chúa Giê-su đã phải trả giá quá đắt là “trở nên phàm nhân” và hy sinh chính mạng sống mình.  Thánh Phao-lô đã ghi lại bài thánh ca hết sức hào hùng để vinh danh Chúa Giê-su đã chu toàn sứ mệnh, như ta thường đọc trong thư Pl 2:6-11.  Thử hỏi còn phương thức nào khác để Thiên Chúa bày tỏ thiện ý của Người nữa không?  Chắc chắn là không.  Vậy mà ta không tin thiện ý của Người, thì quả thực ta bất nhân bất nghĩa và vô tình biết chừng nào!

4.“Tin vào Con của Người” là tin vào tình yêu Thiên Chúa

          Con Thiên Chúa đến với ta.  Người là Tình Yêu nhập thể, tức là Thiên Chúa hóa nên phàm nhân.  Đó là phần của Thiên Chúa trong kế hoạch yêu thương.  Còn phần của ta là nhận, là tin.  Nếu bảo là Thiên Chúa tiền định như ta thường hiểu lầm ý nghĩa tiền định, thì Người đâu cần ta đáp trả và cộng tác vào kế hoạch.  Người chỉ cần độc đoán hành động.  Người sẽ bảo nhân loại:  Các ngươi muốn hay không muốn được cứu, Ta không cần biết! Ta cứ cứu đấy!  Đừng kêu ca gì hết!  Như thế thì còn gì là tình yêu đích thực vì ta bị Thiên Chúa cưỡng bách.  Không, Thiên Chúa không độc đoán như vậy.  Người dành phần cho ta trong kế hoạch của Người.  Người tôn trọng tự do của ta.  Người chỉ mời gọi ta làm một điều thật dễ dàng:  tin vào Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người.  Nếu “sai đến” là một từ có ý nghĩa súc tích đối với Chúa Giê-su, thì “tin vào” cũng mang ý nghĩa súc tích như vậy đối với ta.  Tình yêu luôn luôn phong phú như vậy đó.  Yêu là sống một tương quan.  Càng tích cực sống tương quan thì tình yêu càng mạnh mẽ và dồi dào.  Cũng như Chúa Giê-su được “sai đến” để giải nghĩa cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ như thế nào, thì nhân loại cũng được mời gọi hãy “tin vào” Con Một để hiểu và đón nhận Tình Yêu Thiên Chúa.  Một đàng Thiên Chúa mời gọi, một đàng nhân loại đáp lại.  Tương giao giữa Thiên Chúa và con người được thể hiện tốt đẹp tức là kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được thực hiện tốt đẹp.  Tin không phải là hành động của lý trí, nhưng là của con tim biết mở rộng để đón nhận lời giảng và lối sống của Người, nhờ đó cuộc sống của ta sẽ biến đổi dần dần nên giống với Người.  Tương giao giữa ta với Chúa Giê-su là phương thức đáp lại lời mời gọi cứu độ Thiên Chúa nói với ta.

5. Vai trò của Thánh Thần

          Tuy thánh Gio-an không đề cập đến Thánh Thần trong đoạn Tin Mừng này, nhưng ngài sẽ nói tới vai trò của Chúa Thánh Thần trong những chương cuối sách Tin Mừng.  Nhìn lại những biến cố cuộc đời Chúa Giê-su, ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.  Quyền năng Thánh Thần đã bao trùm trên Mẹ Ma-ri-a trong biến cố Truyền Tin và giúp cho “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1:14).  Thánh Thần đã hiện diện với Chúa Giê-su trong suốt sứ vụ rao giảng Tin Mừng.  Nhất là trong giây phút cuối cùng trên thập giá, Chúa Giê-su đã trao Thần Khí để Thần Khí ấy ngự xuống trên các Tông đồ và Mẹ Ma-ri-a, đổi mới bộ mặt trái đất và làm cho Giáo Hội triển nở mạnh mẽ.  Sau khi Chúa Giê-su về cùng Chúa Cha, công cuộc cứu độ của Người đã được tiếp nối do quyền năng Chúa Thánh Thần cho đến ngày tận thế.

+ Cầu nguyện:

          “Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,

          xin giúp con quên mình hoàn toàn

          để ở lại trong Chúa,

          lặng lẽ và an bình

          như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.

          Lạy Đấng thường hằng bất biến,

          mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con,

          hay làm cho con ra khỏi Chúa;

          nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con

          tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!

          Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,

          xin biến hồn con thành chốn trời cao,

          thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,

          nơi Chúa nghỉ ngơi.

          Ước chi

          con không bao giờ để Chúa ở đó một mình

          nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,

          với thái độ nhạy bén trong đức tin,

          cung kính tôn thờ

          và phó mình cho Chúa sáng tạo.”

          (Trích RABBOUNI, Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Mục lục

 

 

TU ĐỨC

 

NHÌN TRONG TÌNH YÊU TRÁI TIM CHÚA GIÊSU

 

Sự bình an tuỳ thuộc rất nhiều ở cái nhìn. Nhìn mình và nhìn người khác với kiêu căng, sẽ làm mất bình an cho mình và cho người khác. Trái lại nhìn người khác và nhìn mình với khiêm tốn, sẽ đem lại cho mình và người xung quanh một bầu khí bình an nhẹ nhàng.


Kinh nghiệm đời sống dạy tôi như thế. Thêm vào kinh nghiệm đó là kinh nghiệm về trái tim Chúa Giêsu. Khi tôi nhìn bằng tình yêu trái tim Chúa Giêsu, tôi thấy tôi được bình an nhiều lắm.


Bây giờ nhìn sâu vào cái nhìn đó qua chỉ dẫn của những người đạo đức, tôi thấy trái tim Chúa Giêsu đã đổi mới sâu sắc cái nhìn của những kẻ dâng mình cho Người.


Những kẻ dâng mình cho Người thấy mình rất tội lỗi. Từ nhận thức khiêm tốn ấy, họ để Chúa biến đổi cái nhìn của họ bằng tình yêu trái tim Người.


Một tình yêu đem lại khích lệ.


Một tình yêu làm cho biết sợ điều phải sợ.


1/ Tình yêu khích lệ làm điều lành


Ở đây, tôi nhấn mạnh đến sự Chúa Giêsu khích lệ người ngoài đạo Chúa.


Thời Chúa Giêsu, những người theo đạo Chúa có thói quen nhìn người khác đạo bằng con mắt lạnh lùng, thiếu khích lệ. Chúa Giêsu không chấp nhận cái nhìn tự mãn đó. Người sửa đổi cái nhìn dửng dưng của người đạo Chúa bằng nhiều cách. Ở đây, chỉ xin nhắc đến ba trường hợp Chúa đề cao người ngoài đạo Chúa bằng những khích lệ trân trọng.


a) Đề cao đức tin của họ


Phúc Âm thánh Luca kể: Tại thành Caphanaum, có một người đại đội trưởng ngoại đạo, khi nghe Chúa Giêsu vào thành, đã sai mấy kỳ mục của người Do Thái đến gặp Chúa, để xin Người cứu sống cho người nô lệ đầy tớ của ông. Đang khi Chúa trên đường đến nhà ông, thì ông cho người đến nói với Chúa Giêsu rằng: Tôi không xứng đáng được đón tiếp Ngài vào nhà tôi. Xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi sẽ được khỏi. Trước thái độ của ông, Chúa Giêsu đã quả quyết: "Ngay cả trong dân Israel, tôi cũng không thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế" (Lc 7,9).


Lời Chúa phán trên đây là một khích lệ lớn gởi các người ngoài đạo Chúa. Đồng thời đây cũng là lời dạy các người đạo Chúa phải biết khiêm nhường. Chúng ta có biết khích lệ những người khác bằng những lời khen chính đáng không?


b) Đề cao đức yêu thương của họ


Thời đó, những người theo đạo Chúa sống đóng khung trong nội bộ chật hẹp. Họ không muốn nhìn ra ngoài ranh giới đạo mình. Nên cứ tưởng mình đạo đức nhất. Chúa Giêsu sửa đổi thói quen xấu đó bằng đưa ra một dụ ngôn:


Có một người bộ hành từ Giêrusalem đi Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay bọn cướp. Sau khi lấy hết của cải, bọn cướp đánh anh nhừ tử, rồi ném ở vệ đường. Tình cờ một thầy tư tế đi qua. Ông chỉ nhìn qua nạn nhân, rồi tiếp tục đi. Sau đó, một thầy Lêvi cũng đi qua. Ông cũng thấy nạn nhân, nhưng cũng chỉ nhìn qua, rồi tiếp tục đi. Sau cùng, một người Samari cỡi ngựa đi qua. Ông dừng lai, xuống ngựa, chăm sóc nạn nhân, chở nạn nhân vào quán gần đó để nhờ cứu sống nạn nhân, chi phí bao nhiêu ông xin trả hết. Chúa Giêsu khen người Samari ngoại đạo đó là kẻ có lòng thương người thực sự (x. Lc 10,29-37).


Dụ ngôn trên đây là một sứ điệp gởi những người ngoài đạo Chúa như người Samari. Chúa khích lệ họ vì những việc từ thiện bác ái họ làm cho những con người khốn khổ. Sứ điệp cho thấy trước mặt Chúa họ bác ái hơn cả hàng tư tế và Lêvi của đạo Chúa.


c) Đề cao lòng biết ơn của họ


Khi đang đi giữa ranh giới miền Samari và Galilê, Chúa Giêsu gặp 10 người phong cùi. Họ xin Người cứu chữa họ. Người bảo họ: Hãy đi trình diện với các tư tế. Đang khi đi đường, cả 10 người phong cùi đó đều được phép lạ chữa lành. Thấy vậy, một người trong họ đã trở lại cám ơn Đức Giêsu. Đức Giêsu nói: "Chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại đạo này" (Lc 17,17-18).


Lời Chúa phán trên đúng là một khích lệ trân trọng gởi đến những người ngoài đạo Chúa. Lòng biết ơn là một đức tính nhân bản. Giữ được đức tính nhân bản cần thiết đó là bước đầu đi vào đức ái và đức tin.


Khích lệ những người khác làm việc tốt, khích lệ điều tốt nơi những người khác, đó là việc những người tôn sùng trái tim Chúa cần làm. Khích lệ từ những việc thuộc đức tin, cho đến đức ái, cả đến nhân bản. Nhiều khi khích lệ các việc tốt về nhân bản lại rất cần. Bởi vì nếu thiếu nhân bản như sống lười biếng, sống tham lam ích kỷ, sống hiện thực, sống thực dụng, thì dù có siêng đi lễ, đọc kinh, cũng sẽ chẳng làm chứng được nhiều cho đạo Chúa.


Thêm vào sự khích lệ làm điều lành, việc tôn sùng trái tim Chúa Giêsu cũng răn đe, làm cho người ta biết sợ những gì phải sợ.


2/ Tình yêu làm cho biết sợ những điều phải sợ


Nguy cơ đem nhân loại đến diệt vong là nhân loại không còn biết sợ tội.

 

Nguy cơ đưa một cộng đoàn đến suy tàn là cộng đoàn đó không chịu sám hối.


Nguy cơ đưa cả một thế hệ đến chỗ diệt vọng là vì thế hệ đó xem thường hình phạt đời này và hình phạt hoả ngục đời sau.


Phải biết sợ tội, phải biết sám hối, phải biết sợ hình phạt đời này và hình phạt hoả ngục đời sau. Những điều đó chính là của tình yêu cứu độ.


Tôi mới đọc lại một đoạn thư của thánh Phaolô. Người răn đe: "Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng biết, đó là dâm dục, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi báo trước cho mà biết, như tôi đã từng báo: Những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa" (Gl 5,19-21). Đọc xong, tôi tự hỏi: Thời nay, còn mấy người sám hối về chuỗi dài những tội như thế, vì tin chúng cản ngăn mình vào Nước Trời? Tôi nghĩ số người đó còn khá nhiều.


Rồi tôi đọc lại bốn Phúc Âm, tôi nhận ra rất nhiều lời Chúa Giêsu cảnh báo: Phải sám hối, phải tránh tội, kẻo không thoát được hình phạt hoả ngục đời đời. Thí dụ: Tội không thực thi thánh ý Chúa (x. Mt 7,21-23). Tội không làm ra lời những vốn Chúa trao (x. Mt 25,26-30). Tội không phục vụ những người Chúa gởi (x. Mt 24,45-50). Tội không bác ái đối với những kẻ khốn cùng (x. Mt 25, 41-46). Tôi tự hỏi: Chính tôi có nhận thức đúng và đủ những điều Chúa răn đe không? Tôi thực sự phải sám hối.


Những răn đe trong Tân Ước cũng chính là những cảnh báo của tình yêu trái tim Chúa Giêsu. Nếu nhìn mình và người khác trong tình yêu trái tim Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy việc cảnh báo răn đe là rất cần cho tu đức. Ta nên làm việc đó bên cạnh những khích lệ. Răn đe và khích lệ là hai mặt của tình yêu cứu độ. Tôi thấy Chúa cũng đã chia sẻ tình yêu cứu độ cho nhiều người ngoài đạo Chúa tại Việt Nam hôm nay.

 

+ĐGM JB Bùi Tuần

Mục lục

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Đức TGM Nguyễn Văn Tốt, tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Costa Rica

 

VATICAN. Hôm 13-5-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã bổ nhiệm Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt, làm Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Costa Rica, Trung Mỹ.

 

Đức TGM Nguyễn Văn Tốt năm nay 59 tuổi (15-4-1949), thụ phong GM ngày 6-1-2003 và làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Cộng hòa Benin và Togo trong hơn 2 năm. Ngày 24-8-2005, ngài được chuyển sang làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Cộng hòa Trung Phi và Tchad. Từ 2 năm nay, Tchad phải chịu cảnh nội chiến, với các lực lượng phiến quân nổi loạn tại miền đông, nhắm mục đích lật đổ tổng thống Idriss Déby. Có lần phiến quân suýt chiếm giữ được thủ đô N'Djamena.


Costa Rica chỉ rộng 51 ngàn cây số vuông với 4 triệu 200 ngàn dân cư, trong đó 76,3% là tín hữu Công Giáo thuộc 8 giáo phận, họp thành một giáo tỉnh. Tại nước này có 13,7% dân số theo Tin Lành, và 1,3% theo giáo phái Chứng Nhân Giêhôva.


Sau khi ở vùng có nội chiến, nay Đức TGM Nguyễn Văn Tốt được chuyển tới một nước hòa bình, không có quân đội, và khác nới nhiều nước láng giềng, từ 60 năm nay Costa Rica không có nội chiến

Mục lục

 

Tác Dụng Chuyến Tông Du Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Theo cuộc thăm dò của Hội Hiệp Sĩ Kha Luân Bố Hoa Kỳ sau chuyến tông du của ĐTC Biển Đức XVI cho thấy tác dụng thật tích cực đạt được của tác động mục vụ toàn cầu này của ngài, nhất là liên quan tới khía cạnh giáo huấn của Giáo Hội.

Thật vậy, căn cứ vào các dữ kiện thăm dò và thu thập của Marist College Institute for Public Opinion, một cuộc thăm dò được thực hiện  với 1.013 người lớn khắp Mỹ quốc, từ ngày 22/4 đến 29/4/2008, và được phổ biến hôm Thứ Sáu 9/5/2008 thì chuyến tông du thứ tám này của Đức Thánh Cha ảnh hưởng cả tới thành phần sống lẫn không sống đức tin Công Giáo. 

Chẳng hạn, thành phần sống đức tin Công Giáo đã tích cực coi ngài là vị lãnh đạo tinh thần, trước chuyến tông du của ngài, chỉ có 70% sau đó lên tới 82%, còn thành phần không sống đức tin Công Giáo, trước chỉ có 62% sau lên tới 79%/.

Đa số người Công Giáo, 54%, sau chuyến  tông du của ngài, cho biết thấm thía hơn về các giá trị thiêng liêng của mình, và 41% cho biết họ sẽ đi bầu vào tháng 11 tới đây; rồi 64% cho biết họ hiểu hơn về chủ trương của Giáo Hội đối với các vấn đề quan trọng.

88% thành phần sống đức tin Công Giáo và 73% không sống đức  tin Công Giáo cho rằng chuyến tông du của ngài đúng hay vượt quá lòng mong ước của họ. Sau chuyến tông du của ngài, 70% người Công Giáo có một nhãn quan tích cực hơn về Giáo Hội, bao gồm 82% thành phần sống đạo và 56% không sống đạo.

Một nửa số người được thăm dò cho biết họ có thể làm cho gia đình trở thành quan trọng hơn trong đời sống của họ, trong khi đó gần  40% nói rằng họ có thể tích cực hơn trong cộng đồng hay giáo xứ của mình.

Trong số những người công khai bày tỏ cảm nhận của mình về chuyến tông du của ngài, người ta đọc thấy những lời tiêu biểu sau đây của một người tên là Gail Giacobbe.

“Trong cuộc đời của mình tôi chưa bao giờ chứng kiến thấy có quá nhiều người Hoa Kỳ thuộc tất cả mọi giáo phái tỏ ra cảm kích như vậy trước cuộc viếng thăm của Vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta ở nơi đây. Tôi có phúc được tham dự thánh lễ ở Yankee Stadium và thấy 58 ngàn người tỏ ra hết sức SAY MÊ đối với Vị Đại Diện Chúa Kitô. Ngài đã chiếm được tâm can của TẤT CẢ mọi người Hoa Kỳ và chúng tôi kính mến ngài và tiếp tục cám ơn ngài về chuyến viếng thăm của ngài ở nơi đây. Ngay cả những người trong lớp thể dục của tôi cũng cảm thấy BANANAS khi tất cả họ nghe thấy rằng tôi đến Yankee Stadium. Tôi đang nói tới thành phần dân chúng thường nhật của TẤT CẢ MỌI TÔN GIÁO và HOÀN CẢNH. Họ cứ lập lại với tôi rằng: ‘Ôi tuyệt vời biết bao được gặp gỡ CHỊ vì chị đã được gặp Đức Giáo Hoàng’. Tâu Đức Thánh Cha, ngài đã mang đến cho chúng con một niềm hy vọng sâu xa hơn và mới mẻ hơn nơi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. CHÚNG CON XIN CÁM ƠN NGÀI BẰNG CẢ TẤM LÒNG VÀ NGUYỆN CẦU CỦA CHÚNG CON!!”

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9+10/5/2008

Mục lục

 

Việc tôn trọng sự sống và phẩm giá con người đang lâm nguy

 

Vatican City (AsiaNews) - Phẩm giá con người đang trong cơn nguy khốn khi mà “việc thực hiện bản năng giới tính đã bị biến thành một thứ thuốc được tạo ra để bắt người bạn đời phụ thuộc vào mong muốn và quyền lợi bản thân mình mà không tôn trọng tự do của người được yêu mến”. Đây là những gì xảy ra vào thời điểm văn hóa “bị khuất phục bởi con người”, thời điểm cần phải dạy dỗ cho giới trẻ “bằng việc giáo dục giới tính một cách xứng hợp”, trong khi Giáo Hội không thể tự loại mình ra khỏi những suy tư về vấn đề này và cần phải tuyên bố những nguyên tắc cơ bản liên quan đến hôn nhân và truyền sinh. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã có cơ hội lặp lại những nguyên tắc cơ bản mà Đức Giáo Hoàng Phalô VI đã viết trong bản văn vốn trở nên “rất sớm là dấu hiệu của sự tranh cãi”, nhưng cho đến hôm nay đó “không chỉ là bản tuyên ngôn sự thật bất biến của Giáo Hội, mà nó còn bộc lộ một tầm nhìn sâu rộng đối với những vấn đề cần phải đối mặt”.


Khi ban huấn từ cho các tham dự viên Hội nghị quốc tế do Đại học Giáo Hoàng Lateran tổ chức để kỷ niệm 40 năm thông điệp, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhấn mạnh rằng: “tình yêu vợ chồng được mô tả trong sự tiến triển toàn diện mà không dừng lại ở chỗ chia cắt giữa linh hồn và thân xác, cũng không ngừng lại dưới hình thức tình cảm đơn độc, vốn thường phù du và tạm bợ, nhưng nó dẫn đưa vào sự hòa hợp của con người và thông phần hoàn toàn vào người phối ngẫu trong sự chào đón lẫn nhau, để đưa chính bản thân họ vào lời tuyên hứa của người tín hữu và vào trong tình yêu riêng biệt phát sinh từ sự chọn lựa đích thực của tự do. Làm thế nào để tình yêu như thế hầu như vẫn là quà tặng của sự sống?”. “Là những người tín hữu, chúng ta không bao giờ cho phép sự thống trị của công nghệ làm tổn thương đến phẩm chất của tình yêu và tính thiêng liêng của sự sống”.


Cuối cùng, Đức Thánh Cha trở lại với vấn đề vốn gắn bó đặc biệt đối với ngài, đó chính là giáo dục giới trẻ: “Đáng tiếc thay, chúng ta phải chứng kiến ngày càng gia tăng những sự kiện đáng buồn liên quan đến thanh thiếu niên, phản ứng của họ chứng tỏ sự hiểu biết sai lạc về mầu nhiệm sự sống và sự nguy hiểm hàm chứa trong hành động của họ. Tính cấp bách trong việc giáo dục mà cha thường nhắc đến cần được áp dụng bằng cách thế đặc biệt đối với vấn đề sự sống. Cha thực sự hy vọng rằng toàn bộ các hình thức đặc biệt đáng quan tâm sẽ được dành riêng cho giới trẻ, để họ có thể học được ý nghĩa đích thực của tình yêu và chuẩn bị cho chính bản thân chúng điều này bằng việc giáo dục giới tính một cách xứng hợp, để chúng không bị tự lừa dối bằng những lời phù du vốn ngăn chặn nhận thức về cốt lõi của sự thật đang lâm nguy. Đưa ra những ảo tưởng sai lầm trong lĩnh vực tình yêu hay tạo nên những dối trá về trách nhiệm đích thực rằng con người được kêu gọi chấp nhận việc thực hiện bản năng giới tính của họ là không thể hiện sự kính trọng đối với một xã hội vốn được tạo ra từ các nguyên tắc của tự do và dân chủ. Tư do cần phải kết hợp với sự thật và có trách nhiệm bằng khả năng cống hiến cho người khác, ngay cả hy sinh; không có những nhân tố này, cộng đồng nhân loại không phát triển và nguy cơ bị khép kín trong vòng quay vị kỷ ngột ngạt vốn vẫn không ngừng đe doạ”.

Mục lục

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh về di dân

 

VATICAN. Sáng 15-5-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến 75 tham dự viên khóa họp toàn thể thứ 18 của Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động. Ngài kêu gọi bênh vực và nâng đỡ gia đình di dân.


Khóa họp của Hội đồng tiến hành từ ngày 13 đến 15-5-2008 với chủ đề ”Gia đình di cư và lưu động”. Trong số 26 HY và GM thành viên của Hội đồng, đặc biệt có Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, TGM Hà Nội.


Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc lại rằng trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Hoa Kỳ mới đây (15-20.4.2008), ngài đã khích lệ Đại quốc này tiếp tục đón nhận những anh chị em di dân, phần lớn từ các nước nghèo. ĐTC nói: ”Tôi đặc biệt nêu bật vấn đề hệ trọng là việc đoàn tụ gia đình, như tôi đã bàn đến trong Sứ điệp nhân Ngày Thế Giới di dân và tị nạn lần thứ 93, bàn về gia đình di dân... Không được quên rằng gia đình, kể cả các gia đình di dân và lưu động, chính là tế bào nguyên thủy của xã hội; không được phá hủy tế bào này, trái lại cần can đảm và kiên nhẫn bảo vệ. Gia đình chính là cộng đoàn trong đó, ngay từ ấu thơ, ta được huấn luyện để thờ lạy và yêu mến Thiên Chúa, học những qui luật về các giá trị nhân bản và luân lý, cũng như học cách sử dụng tự do trong chân lý. Rất tiếc là trong nhiều hoàn cảnh, việc học hỏi này gặp khó khăn, nhất là trong trường hợp hiện tượng lưu động của con người”.


ĐTC đề cao qui luật tối thượng hướng dẫn cộng đoàn Kitô trong việc đón tiếp và đối thoại với người di dân và lưu động, chính là giới răn mới của Chúa Kitô, giới răn yêu thương. Tình yêu mà Chúa Kitô đã sống đến độ chịu chết trên thập giá, Ngài tiếp tục thông truyền cho Giáo Hội qua Tin Mừng và các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể”.


ĐTC đặc biệt nói đến mối liên hệ giữa Thánh Thể, hôn nhân và gia đình. Ngài cũng nhận định rằng sự lưu động của con người ngày nay trong thế giới hoàn cầu hóa, là một biên cương quan trọng của công cuộc truyền giáomới. ĐTC nói: ”Vì thế, tôi khích lệ anh chị em tiếp tục dấn thân mục vụ, với lòng nhiệt thành được đổi mới, và tôi cam kết gần gũi anh chị em trong kinh nguyện để Chúa Thánh Linh làm cho mọi sáng kiến của anh chị em được phong phú” (SD 15-5-2008).

Mục lục

 

ĐTC kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân động đất ở Trung Hoa

 

Vatican- Thứ tư ( 14/08), ĐTC kêu gọi cầu nguyện « cho người dân tỉnh Sichuan và các tỉnh phu cận » bị tàn phá bởi cơn động đất mạnh nhất từ hơn 30 năm nay làm chấn động Trung Hoa.

« Lúc này, tôi nghĩ đến nhân dân tỉnh Sichuan và các vùng phụ cận bị cơn động đất tàn phá nặng nề. Tôi mời tất cả anh chị em cùng hiệp nhất với tôi trong lời nguyện sốt sắng cho những đã người chết », ĐTC nói với những người hành hương tập trung tại quảng trường Thánh Phê rô.

ĐTC nhấn mạnh rằng ngài cảm thấy « tinh thần gần gũi với những người bị đau khổ vì thiên tai tàn phá ». Ngài cầu xin Thiên Chúa để Ngài nâng đỡ nổi đau của họ », và giúp đỡ mọi người dấn thân trong việc cứu trợ.

Sichuan là tỉnh năm phía tây nam Trung Quốc, bị thiệt hại nặng nề do cơn động đất, 7,9 độ hiter hôm thứ Hai, là cơn động đất mạnh nhất ở Trung Hoa từ 30 năm nay.

Theo thống kê chính thức hôm nay, thứ tư (14/05/08) đã có hơn 14.000 chết, nhưng bản thống kê này sẽ tăng số người chết lên dần từ các vùng hẻo lánh.

Mục lục

 

Người Công giáo Trung quốc sau cơn động đất

 

Chengdu (Thành Đô, Trung quốc) - CNA –Sau trận động đất kinh hoàng 7.9 độ xảy ra hôm thứ hai vừa qua, các linh mục trong khu vực phía tây nam tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) bị tàn phá đang nỗ lực giúp đỡ những nạn nhân sống sót và thẩm định thiệt hại và mất mát sinh mạng trong những cộng đồng các ngài phụ trách. Các giám mục và linh mục kêu gọi trợ giúp và cầu nguyện, các tổ chức Công giáo đang nhận vật phẩm ủng hộ để giúp đỡ nạn nhân.


Bộ Công dân vụ Trung quốc tuyên bố trong một cuộc họp báo tại Bắc kinh chiều hôm qua rằng trận động đất đã giết hại 11,921 người và tàn phá 500 ngàn nhà cửa tại Tứ Xuyên (Sichuan) và các tỉnh kế cận.


Các linh mục tại địa phương cho hãng thông tấn UCA News biết rằng thông tin đó chưa đầy đủ, một phần vì các hệ thống điện thoại liên lạc bị cắt đứt và đường xá bị hư hại. Các linh mục này xác nhận có ít nhất một ngôi thánh đường bị sập và hàng chục nhà thờ khác bị hư hại do trận động đất mạnh 7.9 độ trên địa chấn kế Richter.


Linh mục Simon Li Zhigang, quản trị giáo phận Thành Đô (Chengdu), cho thông tấn xã UCA News biết rằng ngài không thể liên lạc bằng điện thoại với các linh mục ở Weichuan, nơi có chừng 100 người Công giáo, và ở Beichuan, nơi có mấy trăm giáo dân.


Cha nói rằng một giáo dân làm việc tại nhà thờ ở Mianzhu bị chết vì gạch đá rơi, còn hai giáo dân khác bị thương. Hai ngôi thánh đường trong giáo phận bị sập một phần, một nhà thờ khác sụp đổ hoàn toàn, và 30 nhà thờ khác bị hư hại.


Tại giáo phận Nanchon, cách trung tâm địa chấn khoảng 150 dậm, dì phước Wang Yan cho UCA News biết phòng sinh hoạt kế cận thánh đường rung chuyển tới 7 phút, ném mọi vật dụng xuống sàn nhà, và bà tưởng chừng như là ngày tận thế đang tớí.


Cả mấy chục giáo dân hiện đang tạm trú trong thánh đường thị trấn Nanchong. Nhà thờ này bằng gỗ, nên giáo dân cảm thấy an toàn hơn những căn nhà bằng gạch đã bị hư hại.


Cha Xie Bangyong thuộc giáo phận Trùng Khánh (Chongquing) nói rằng các linh mục đã chia thành từng nhóm đi thăm những người Công giáo trong vùng và ước tính thiệt hại của các nhà thờ cũ kỹ. Các linh mục, nữ tu và giáo dân đều được an toàn, nhưng một người không Công giáo làm việc bảo trì thánh đường bị gẫy chân. Nơi một số nhà thờ cũ xưa cũng xuất hiện các vết nứt.


Giám mục phụ tá Paul He Zeqing giáo phận Vạn Châu (Wanzhou) cho biết ngôi nhà cư trú cho các linh mục và ngôi nhà khác cho các nữ tu trong vùng Lương Bình (Lianping) đều không còn an toàn. Còn các ngôi nhà thờ khác, tất cả đều mới xây nên không bị ảnh hưởng của trận động đất.


Trong thánh lễ cử hành sáng thứ Ba, Đức giám mục He hướng dẫn giáo dân cầu nguyện cho các nạn nhân; ngài cũng thúc giục họ ủng hộ cho các nỗ lực cứu trợ.


Tại miền đông Trung quốc, giáo phận Thượng Hải đã ủng hộ 1 triệu đồng nguyên (khoảng 143 ngàn mỹ kim) để cứu trợ. Giám mục Thượng Hải là Aloysius Jin Luxian đã chỉ thị cho tất cả linh mục tại các giáo xứ cầu nguyện cho các nạn nhân và người sống sót trong các buổi chầu Thánh thể dự định tổ chức vào Chủ nhật này. Ngài cũng yêu cầu các linh mục ủng hộ tiền thu trong các thánh lễ hôm đó vào quỹ cứu trợ.


Giám mục Joseph Wei Jingyi, thuộc giáo hội chui ở Tề Tề cáp nhĩ (Qiqihar trong vùng đông bắc tỉnh Hắc long giang (Heilongjiang), đã soạn thảo và cho lưu hành một bản kinh ngài viết xin Chúa chữa lành các vết thương tâm linh và thể xác của những người bị thiên tai này.


Tại miền nam Trung quốc, tổ chức Tianrun của giáo phận Giang Môn (Jiangmen) đã dùng mạng lưới internet thúc giục người Công giáo ủng hộ thuốc men, quần áo, lều và tiền bạc. Tổ chức này cho biết vật phẩm thu được sẽ gửi tới các nạn nhân qua bộ Công dân của chính phủ hoặc các tổ chức bác ái khác.

Cơ quan Bác ái Jinde trụ sở đặt tại miền bắc Trung quốc, một tổ chức Công giáo toàn quốc không trực thuộc nhà nước, cũng đã kêu gọi cầu nguyện và ủng hộ cứu trợ nạn nhân động đất trên mạng lưới của tổ chức này.

Mục lục

 

Chính thức mở Hồ Sơ Phong Chân Phước cho Cha Theodore Foley người Hoa Kỳ

 

ROME (Zenit.org).- Hồ Sơ Phong Chân Phước cho vị Linh Mục người Hoa Kỳ, sinh trưởng tại tiểu bang Massachusetts vào thế kỷ 20 đã được chính thức mở tại Rôma vào hôm thứ Sáu tuần qua.


Cha Theodore Foley (1913-1974) đã từng là Cha Bề Trên Tổng Quyền của Dòng Passion hay còn được biết đến là Passionists (tức các Cha thuộc Dòng Giáo Đoàn Thụ Nạn).


Đức Hồng Y Camillo Ruini, vị Tổng Đại Diện cho Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 ở Giáo Phận Rôma đã mô tả về đời sống của vị Linh Mục quá cố trong buổi lễ công bố quyết định mở hồ sơ Phong Chân Phước cho Cha. Đức Hồng Y nhân dịp này cũng mời gọi các Cha Dòng Passionist hãy tiến bước theo con đường thánh hóa mà Cha Cố Foley đã đeo đuổi một cách nhiệt thành khi còn sống.


Daniel Foley chào đời vào năm 1913 ở thành phố Springfield trong một gia đình di dân người Ái Nhĩ Lan. Cậu Foley thưở nhỏ đã theo học tại các trường do các Cha Dòng Passionist giảng dạy và đã lắng nghe tiếng gọi vào chức Linh Mục. Rồi cậu chính thức gia nhập Dòng Passionist vào năm 1932, và khấn dòng một năm sau đó lấy tên là Theodore. Thầy Theodore được truyền chức Linh Mục vào năm 1940 tại thành phố Baltimore thuộc tiểu bang Maryland.


Vào năm 1958, Cha Foley trở thành tổng cố vấn và trợ tá cho Cha Bề Trên Tổng Quyền của Dòng Passionist. Rồi vào năm 1964, Cha được bầu trọn thành Tân Bề Trên Tổng Quyền của Dòng, một vị trí mà Cha đã nắm giữ cho đến lúc chết đi vào ngày 9 tháng 10 năm 1974.


Cha Giovanni Zubiani, thỉnh nguyện viên của Hồ Sơ Phong Chân Phước đã nói về Cha Cố Foley như là một người luôn mở rộng cho việc đối thoại, nhưng đối thoại "rắn chắc dựa trên những nguyên tác và linh đạo của Dòng."


Như vậy tính cho đến nay, Tòa Thánh hiện đang mở ra hai Hồ Sơ Phong Thánh và Chân Phước cho hai vị Linh Mục quá cố người Hoa Kỳ, đều xuất thân từ gốc Ái Nhĩ Lan đó là Cha Michal F. McGivney - vị sáng lập ra Hội Hiệp Sĩ Columbus và Cha Cố Theodore Foley của Dòng Passionists.

 

Dòng các Cha Passionists được thành lập từ năm 1852 với Thánh Bổn Mạng là Thánh Phaolô Thánh Giá - Dòng có các Dòng Tu Nam lẫn Dòng Tu Nữ chuyên giảng dạy Phúc Âm và mang sứ điệp Tin Mừng đến với tất cả mọi người.


Để tìm hiểu thêm về Dòng Các Cha Passionists và riêng Cha Cố Theodore Foley, mời Quý Vị vào trang Web tại: www.cptryon.org/compassion/83/foley.htm hay

http://cpprovince.org/archives/index.php

Mục lục

 

 

Đức Giáo Hoàng Phân Ưu Cùng Miến Điện


VATICAN 6 tháng 5, 2008 – Đức Giáo Hoàng Benedict XVI ngỏ lời phân ưu cùng các nạn nhận của trận cuồng phong Nargis tàn phá Miến Điện ngày Thứ Bẩy vừa qua.

Trong một điện tín được Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giáo Toà Thánh, gửi cho Đức Tổng Giám Mục Phaolô Zinghtung Grawng, Tổng Giáo Phận Mandalay, và cũng là Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Miến Điện, Đức Giáo Hoàng bầy tỏ lòng xót thương và hứa sẽ cầu nguyện cho các nạn nhân.


Điện tín viết: "Đức Thánh Cha hết sức buồn rầu về tin tức của thảm trạng do trận bão mới đây gây ra, ngài phân ưu cùng các gia đình nạn nhân. Trong những kinh cầu cho các nạn nhân và gia đình, Đức Thánh Cha xin Thiên Chúa ban bình an cho những kẻ đã qua đời và sức mạnh và ủi an cho những kẻ không nhà và đang chịu nhiều đau khổ.


"Tin tưởng rằng cộng đồng thế giới sẽ đáp ứng quảng đại và hữu hiệu cho việc cứu trợ đồng bào của qúy vị, Đức Thánh Cha xin Đức Tổng Giám Mục chuyển lời cho các giới chức chính quyền và toàn thể dân chúng quý mến của quốc gia Miến Điện tình đoàn kết và mối ưu tư của ngài."


Con số thương vong mỗi lúc mỗi gia tăng tại Miến Điện, Đài Phát Thanh Quốc Gia báo cáo hôm nay có trên 22.000 người chết đã được kiểm chứng và khoảng 41.000 người mất tích.

Mục lục

 

Đức Thánh Cha ban ơn Toàn Xá nhân dịp Năm Thánh Phaolô

 

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 ban ơn toàn xá cho các tín hữu trong Năm Thánh Phaolô Tông Đồ từ ngày 28-6-2008 đến 29-6-2009.


Trong sắc lệnh công bố hôm 10-5-2008, Tòa Ân Giải tối cao thông báo quyết định trên đây của ĐTC đồng thời xác định chi tiết các điều kiện để hưởng ơn toàn xá. Việc ban Ơn này nhắm mục đích giúp các tín hữu canh tân và củng cố những quyết tâm đạt ơn cứu độ siêu nhiên và thanh tẩy nội tâm, nâng cao đời sống siêu nhiên và thúc đẩy họ mang lại nhiều hoa trái việc lành phúc đức.


1. Trước tiên ĐTC ban ơn toàn xá cho mỗi tín hữu thành tâm thống hối, xưng tội, rước lễ và hành hương kính viếng Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, và cầu nguyện theo ý ĐTC. Ơn này có thể lãnh nhận mỗi ngày một lần và có thể dành cho bản thân, hoặc nhường lại cho những người quá cố. Khi viếng Đền thờ này, các tín hữu phải cầu nguyện trước bàn thờ Mình Thánh Chúa, rồi đến trước bàn thờ chính của Đền thờ, sốt sắng đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, và dâng những cầu khẩn tôn kính Mẹ Maria và Thánh Phaolô. Việc sùng mộ này luôn được liên kết với sự kính nhờ thánh Phêrô là thủ lãnh các tông đồ.


2. Tiếp đến, các tín hữu ở các giáo hội địa phương, cũng được hưởng ơn toàn xá nếu họ xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý ĐTC, từ bỏ lòng quyến luyến tội lỗi, sốt sắng tham dự một buổi lễ công khai mừng kính Thánh Phaolô Tông Đồ dân ngoại, vào những ngày lễ long trọng khai mạc và kết thúc Năm Thánh Phaolô, tại các nhà thờ; và trong những ngày khác do Đấng Bản Quyền địa phương ấn định thì tại những nơi nơi dâng kính Thánh Phaolô, và tại những nơi khác cho Đấng Bản quyền chỉ định, vì lợi ích của các tín hữu.


3. Sau cùng, các tín hữu bị ngăn trở vì bệnh tật hoặc lý do chính đáng, cũng có thể được hưởng ơn toàn xá với điều kiện thường lệ trên đây, đồng thời kết hiệp thiêng liêng với một buổi cử hành kính Thánh Phaolô, dâng lên Thiên Chúa những lời khẩn nguyện và đau khổ của mình để cầu cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.


Sau cùng, sắc lệnh kêu gọi các LM có năng quyền hãy sẵn sàng và quảng đại giải tội cho các tín hữu, để họ có thể lãnh nhận thiên ân nói trên đây.


Năm Thánh kỷ niệm 2000 năm sinh nhật của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại sẽ được ĐTC Biển Đức 16 khai mạc trong buổi lễ tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma ngày 28-6-2008 tới đây (SD 10-5-2008)

Mục lục

 

Từ Viện dưỡng lão Thị Nghè đến nhà thờ Martinô

 

Ngôi nhà thờ nằm lọt thỏm giữa những nhà hàng, cửa hiệu, văn phòng chi cục phòng chống tội phạm, bãi đậu xe..., nói chung là “tả pí lù”, trong khu đất rộng lớn trước đây là Viện dưỡng lão Thị Nghè của các nữ tu Dòng Thánh Phaolô. Nhà thờ cổ, nhỏ và xinh xắn, khiêm tốn và khuất vắng giữa chốn ì đùng kinh doanh, nhưng lại là điểm hẹn của nhiều người bất hạnh, đơn độc.


Một công trình cổ


Hồ sơ lưu tại nhà Giám tỉnh Dòng Thánh Phaolô Thành Chartres ở Việt Nam ghi: Viện dưỡng lão Thị Nghè được đặt viên đá đầu tiên tháng 6.1876, là nơi tá túc, nương tựa của những cụ già bệnh tật, cô đơn, vô gia cư và chăm sóc trẻ mồ côi bị bỏ rơi. Cùng thời điểm xây cất này, một ngôi nhà thờ được hình thành trong khuôn viên Viện để phục vụ nhu cầu tâm linh cho những người vào sống nơi đây có đạo Công giáo, đồng thời là nhà nguyện của các nữ tu phục vụ Viện dưỡng lão và trại mồ côi.


Dù ban đầu chỉ là nhà nguyện mang tính nội bộ nhưng với thời gian, ngôi thánh đường này nhanh chóng trở thành chỗ lui tới, lễ lạy của nhiều giáo dân trong vùng. Năm 1888, giáo xứ Thị Nghè được thành lập, nhà nguyện Viện dưỡng lão trở thành một họ lẻ của Thị Nghè với đầy đủ những sinh hoạt, tổ chức như những họ đạo miền Nam khác. Nhà thờ Martinô ngày nay được hình thành và phát triển một cách êm đềm và nhẹ nhàng như vậy.


Sau năm 1975, qua bao thăng trầm của những sự kiện chuyển giao quyền quản lý Viện dưỡng lão, của những giằng co đi – ở của các nữ tu và chính quyền nhiều thời điểm, với những đổi thay lớn lao về mục đích sử dụng khu Viện cũ, cùng với sự mọc lên của vô số những cơ sở kinh doanh trên khu đất lý ra chỉ dành cho những người bị bỏ rơi, côi cút, “tứ cố vô thân”..., ngôi nhà nguyện vẫn là điểm đến của nhiều người dân khu vực Thị nghè, Hàng Sanh, vẫn duy trì thường xuyên những sinh hoạt Công giáo, do cha già Nguyễn Văn Long (Dòng Biển Đức) phụ trách từ 1974 đến 2007. Tuy nhiên, bởi gặp nhiều khó khăn trong việc sửa chữa, trùng tu, bảo tồn nên ngôi nhà thờ cổ hơn 100 với kiến trúc kiểu Pháp rất đẹp đã xuống cấp trầm trọng. Lại thêm những công trình xây vội về sau đè, chặn xung quanh nên nhiều khoảng không và đường nét của ngôi thánh đường bị mai một, bào mòn.


Tháng 5.2007, Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn có bài sai bổ nhiệm linh mục Phêrô Vũ Minh Hùng về trông coi họ đạo, và cũng từ thời điểm đó, một sức sống mới đã ngập tràn tại họ đạo Martinô này.

 

Việc đầu tiên của cha Hùng khi đến nhận họ đạo (biệt lập, trực thuộc xứ Thị Nghè) là trùng tu toàn bộ ngôi thánh đường. Chỉ sau vài tháng, nhà thờ Martinô đã có một gương mặt mới, khang trang nhưng vẫn giữ lại toàn bộ kiến trúc cũ. Chỉ có một điểm đáng tiếc là vì khuôn viên còn lại của nhà thờ không nhiều, chỉ khoảng 20mx30m, lại phải dành một trong 6 gian nhà thờ làm nơi ở cho cha sở, 3m hông làm hành lang vào phía sau và 2,5m làm sân trước nên nhà thờ bị bó hẹp như một chiếc hộp, lại bị ban công của một nhà hàng đè hẳn lên một góc (nhà hàng này không biết vì sao được mọc lên trong khuôn viên Viện dưỡng lão ngày trước). Tiếng nhạc từ nhà hàng, tiếng máy xe từ gara và bãi tập xe, tiếng í ới kinh doanh từ vô số cửa hiệu trong khu đất Viện vốn êm đềm xưa ít nhiều làm ảnh hưởng đến những sinh hoạt của một họ đạo có đến gần 3000 nhân danh chính thức và hơn 1000 người nhập cư đến sống và làm việc trong vùng.


Nhà chung


Chuyện trùng tu một ngôi thánh đường cũ có tuổi hơn một thế kỷ chỉ trong vòng vài tháng của cha Hùng đáng kể là một kỳ tích, nhưng có một việc cha làm được còn lớn hơn và ý nghĩa hơn cả chuyện này, đó là vực dậy những sinh hoạt của giáo dân nơi đây và giúp họ có nhiều hoạt động vượt ra ngoài khuôn viên nhà thờ (hiểu theo nghĩa bóng) để đến với tha nhân, đến với nhau một cách thiết thực. Hơn hết là cha đã biến ngôi thánh đường nhỏ bé này thành điểm gặp gỡ, lui tới của nhiều người bất hạnh, đơn độc trong cuộc mưu sinh.


Tôi ghé thăm nhà thờ Martinô 3 lần, đều không hẹn trước nhưng cả ba lần, tôi đều bắt gặp hình ảnh cha Hùng và một hoặc vài anh chị em khuyết tật ngồi nhỏ to với nhau trong nhà thờ hoặc ở một góc ngoài hành lang. Họ là những người tàn tật, xuôi ngược kiếm sống bằng đủ thứ nghề như bán vé số, công nhân..., có đạo hoặc không có đạo. Một khi gặp trắc trở gì đó trong cuộc sống, có thể là một tình huống khó xử trong sinh hoạt hay có nỗi lo, nỗi trăn trở về những vấn đề ai cũng dễ gặp phải, hoặc thậm chí là lúc túng thiếu không tiền trả chi phí phòng trọ..., đã đến nhà thờ nhờ cha hướng dẫn, khuyên nhủ. Họ, những người phần lớn không còn người thân, ít bè bạn, đã tìm thấy một nơi để đi về, một chốn để tìm phút thanh thản là nhà thờ Martinô. Ở đó, ngoài cha phụ trách, đồng hành cùng họ còn có một nhóm thiện nguyện Martinô gần 20 người có tấm lòng, luôn biết lắng nghe, thấu hiểu và sẵn sàng đưa ra những lời khuyên, những hướng ra cho họ khi cần thiết. Nhà nguyện nhỏ bé này thật sự trở thành ngôi nhà chung của nhiều người, nhất là với những người bị xã hội gạt ra bên lề, ít có cơ hội vươn lên.


Mỗi sáng Chúa nhật, nhà thờ Martinô rộn ràng từ rất sớm. Các anh chị em nhóm thiện nguyện đi chợ chiều thứ 7, bốn giờ sáng là đã có mặt nổi lửa nấu nướng bên hành lang chật hẹp của ngôi nhà thờ để kịp phục vụ cho anh chị em khuyết tật sau thánh lễ bảy giờ. Số là, từ ngày về nhận họ đạo, cha Hùng đã duy trì được mỗi tuần một bữa ăn chung cho những người nghèo, người khuyết tật khắp nơi vào sáng Chúa nhật. Không cao sang, không cầu kỳ, hôm thì bún mọc, lúc bánh canh, bữa cơm tấm nhưng đều đặn và vui. Những anh chị em bất hạnh sau bữa ăn lại có dịp hàn huyên, kể chuyện công việc cho nhau nghe hay nói về những ước mơ, dự định hoặc khó khăn đang gặp... Hôm ít thì 5 – 7 chục người, tuần đông lên đến hơn một trăm. Những người bất hạnh khắp các nẻo đường hàng tuần như những người con đi làm xa, hội về cùng ăn với cha sở, cùng cười và trò chuyện. Thỉnh thoảng, nhà thờ lại mời những nhóm thiện nguyện khác đến hớt tóc, phát quà cho tất cả họ. Những người bất hạnh đã tìm được nơi để chia sẻ, nơi để không còn cảm thấy mặc cảm, nơi mọi khoảng cách bị xóa tan, chỉ còn lại tiếng cười, sự đồng cảm và những giây phút thanh thản sau một tuần xuôi ngược đánh vật với miếng cơm, manh áo. Hàng tháng, họ cũng được chu cấp gạo từ nhà thờ, như là một chút tình chia sớt với cuộc sống chưa bao giờ thong thả của họ.

Nhà thờ Martinô, sau 132 năm tồn tại, có lúc chìm lắng, nay đã như bừng tỉnh. Chỉ tiếc là, theo như lời cha Hùng, vì diện tích quá bé nhỏ nên việc tổ chức những hoạt động có tính xã hội như vừa kể bị hạn chế, trong khi khuôn viên Viện dưỡng lão cũ vẫn còn rộng và nhiều khoảng trống nhưng bị sử dụng manh mún. Có một căn nhà kho cũ của nhà nguyện nằm gần nhà thờ hiện bỏ hoang, do Sở LĐ-TBXH quản lý đang được cha Hùng xin lại làm nhà ở, để không còn phải dùng một gian nhà thờ vốn đã bé nhỏ để sinh hoạt như hiện nay, nhưng vẫn chưa được giải quyết.


Cha Hùng vẫn đang chờ và chắc là nhiều giáo dân Martinô, nhiều người bất hạnh cũng đang mong ước.

 

Lê Hữu Tuấn

Mục lục

 

 

CHA GIUSE NGUYỄN VĂN CHỦ ĐẾN THĂM VÀ NÓI CHUYỆN VỚI CHỦNG SINH ĐẠI CHỦNG VIỆN HÀ NỘI

Nhận lời mời của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt và cha Giám đốc Đại chủng viện Laurenso Chu Văn Minh, sau giờ kinh chiều ngày 08/05/2008, cha Giuse Nguyễn Văn Chủ, chính xứ Xóm Thuốc - Gò Vấp, một trong những giáo xứ kiểu mẫu của Giáo Phận TPHCM, đã đến thăm và nói chuyện với chủng sinh tại hội trường của ĐCV.

Chia sẻ về những kinh nghiệm mục vụ giáo xứ, cha Giuse nhấn mạnh đến hai tấm gương làm “kim chỉ nam” cho đời sống linh mục của ngài là Thánh Gioan Bosco: yêu mến và quan tâm đặc biệt tới giới trẻ và thánh Gioan Vianney: kiên nhẫn, gần gũi để chỉ dạy cho thiếu nhi…

Nói về giáo xứ Xóm Thuốc, cha say sưa khi nhắc tới các em thiếu nhi, ngài nói: “… có khoảng 400 em thiếu nhi đi lễ hàng ngày, tham dự thánh lễ rất sốt sắng,  ngay cả những em 4, 5 tuổi (ngồi khoanh tay và trật tự trong suốt buổi lễ). Xứ có trên mười lớp giáo lý từ bao đồng cho đến tiền hôn nhân, mỗi lớp được một sơ giúp về giáo lý nên việc học khá nghiêm chỉnh, bạn nào nghỉ phải trình giấy phép có ý kiến của phụ huynh….”

Cha cũng cho biết rằng, những thành công hôm nay của bản thân ngài cũng như của giáo xứ trước tiên là nhờ ơn Chúa sau đó là sự cộng tác đắc lực của mọi thành phần trong giáo xứ, đặc biệt là của các phụ huynh trong hành trình giáo dục con em mình….

Buổi nói chuyện tuy ngắn ngủi song cha Giuse đã truyền đạt cho các chủng sinh biết bao kinh nghiệm quý báu và nhất là nhiệt huyết tông đồ của ngài.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần thêm sức để cha chu toàn bổn phận của mình và kính chúc giáo xứ Xóm Thuốc mãi là một tấm gương sáng trên đường “lữ hành” trần thế.

Gioan Đình Sơn

Mục lục

 

Lễ an táng Đức Viện Phụ Châu Sơn - Đơn Dương Đà Lạt: Stephanô Trần Ngọc Hoàng

 

ĐÀ LẠT - Sau cả tuần mưa như trút ở vùng Tây Nguyên, Dalat, sáng nay 14. 5. 08 trời lai tạnh mưa. Thật Trời thương quá sức. Các giáo dân vùng chung quanh, các thân nhân tang quyến Bắc Nam, các dòng tu nam nữ, nhất là các đan viện khắp nơi và các linh mục quen biết và thuộc giáo phận Dalat tuôn về Đan viện Thánh Mẫu Châu sơn Đơn Dương Dalat rất đông, để tiễn đưa Viện Phụ 80 tuổi về nơi an nghỉ muôn đời,.


Thánh lễ đồng tế do Đức cha Phêrô, Giám mục Gp Dalat và kiêm chủ tịch HĐGMVN chủ sư, cùng hai viện phụ Ephrem Đức của đan viện Châu sơn và viện phụ Hiền, đan viện Phước Sơn Hội trưởng, và gần 200 linh mục đồng tế. Lòng nhà nguyện không đủ sức chứa ngần ấy người… Mọi người trong ngòai đều hiệp thông Thánh lễ an táng rất sốt sắng và trang nghiêm.


Đức cha Phêrô Nguyễn văn Nhơn mở lời trước lễ với cung giọng nghẹn ngào, rưng rưng nuớc mắt thương nhớ NGƯỜI CHA nhân ái yêu hết mọi người như khẩu hiệu:”YÊU TU LUẬT và THƯƠNG ANH EM’, như tôn chỉ của thánh Biển Đức và giới luật mới yêu thưoung của Chúa Giêsu….


Khi giảng lễ Đức cha Phêrô còn khai triển nhiều cụ thể hơn. có nhiều liên hệ với giáo phận Dalat. Giáo phận Dalạt thật diễm phúc có được một dan viện chiêm niệm ở giữa để cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của giáo phận. Khi có du khách hỏi thăm, Ngài chỉ giới thiệu hai nơi:tìm nơi an bình cầu nguyện thì đến Châu Sơn, còn tìm bài học Bác Ai thì đến làng cùi Di Linh với các Nữ tiử Bác Ai…. Ngài cũng kể đến mối hiệp thông cá nhân của viện phụ với Tòa Giám Mục Dalat và bản thân Giám mục từ năm 1964 khi Cha làm Viện phụ tiên khởi của Châu Sơn. Rồi những tháng ngày khó khăn do hòan cảnh, do đủ thứ bệnh, viện phụ vẫn bình thản đón nhận và vui chịu đựng theo thánh ý Chúa, không để người khác biết. Thánh hóa cuộc đời bằng chính các đau khổ bản thân. Ngài giao tiếp hài hòa với mọi hạng nguời nên mọi người mến thương Người, kể cả chính quyền các cấp và khắp nơi trong Nam ngòai Bắc….


Hôm nay ngài nằm yên nghỉ vĩnh viễn bên Chúa.


Tân viện phụ trẻ trung Ephrem cũng nghẹn ngào cám ơn Đức cha, các cha và mọi người,. . và nguời Cha, nguời Thày, nguời Bảo trợ nay vắng bóng nên cảm thấy trọng trách đè nặng trên đôi vai bé bỏng. Xin mọi người thêm lời cầu nguyện…


Phần mộ của viện phụ Stephano ở ngay ngòai cửa của nguyện đường Châu Sơn, cũng gần cửa sổ căn phòng của viện phụ tưng ở. Mọi qúy khách tới Châu Sơn dễ dàng viếng thăm Ngài, hơn ở ngòai nghĩa địa của hội dòng….


11g15 mọi sự an táng đã hòan tất. Lời Chúa qua thư thánh Phaolô nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1. 21)

Trần Tiến

Mục lục

 

 

Một linh mục Việt kiều với chương trình Mái Ấm Mẹ Việt Nam cho giáo xứ Bình Thuận

 

NGHỆ AN - Cuộc đời quanh ta vẫn còn có những nỗi đau khôn tả, có những số phận bất hạnh với một tương lai thật xa vời, những trẻ em mồ côi, khuyết tật; những người gặp căn bệnh hiểm nghèo; những người neo đơn, cơ nhỡ…. Đau khổ vẫn luôn hiện diện quanh ta, đồng hành với cuộc sống của nhiều anh chị em mặc dù trong con mắt của chúng ta không phải lúc nào cũng cảm nghiệm được nỗi đau đó như tâm sự của Lm Xuân Đường, CSsR trong một nhạc phẩm: “Ngày nào ôm nỗi đau, tôi mới hiểu nổi đau là gì, lần mò trong khát khô, tôi mới hiểu phận người ăn xin…..”


Mong muốn sẻ chia những khó khăn của những anh chị em bất hạnh trên quê hương Việt Nam, Lm Phêrô Trần Trọng Mỹ thuộc TGP Adelaide – Australia đã thành lập nhiều cơ sở bác ái ở nhiều địa phương, thực hiện những chuyến hành trình từ thiện xuyên Việt nhằm thắp lên ngọn lửa tình yêu, niềm tin và niềm hi vọng đã mất nơi những anh chị em đó. Giáo phận Vinh là quê gốc của Lm Phêrô và cũng là nơi Ngài hiện đang hoạt động mục vụ. Nhân dịp Ngài thành lập Mái ấm Mẹ Việt Nam nhằm bảo vệ sự sống, phòng chống phá thai tại giáo xứ Bình Thuận (Nghi Thuận, Nghi Lộc, Nghệ An) ngày 10.5.2008, chúng tôi đã được gặp Ngài. Sau đây là một số chia sẻ của Ngài về các hoạt động từ thiện mà Ngài đã thực hiện.


Hỏi: - Trọng kính cha, con xin chúc mừng cha đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trong công cuộc từ thiện ở Việt Nam,nguyện xin Thiên Chúa cho công việc của cha luôn được thành công về mọi mặt. Nhân dịp này chúng con muốn được biết đôi nét về cha và công cuộc từ thiện bác ái của cha.


Trước hết, xin Cha cho biết Cha về quê hương mà cha đã từng sinh sống?


Lm Mỹ: - Cha trước khi rời Việt Nam sống ở Nha Trang nhưng quê gốc cha ở xứ Kim Đôi thuộc huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Cha rời Việt Nam vào cuối năm 1983 lúc 13 tuổi. Sau hai năm sinh sống tại Philippin, cha được chính phủ Úc cho định cư tại bang South Australia.


Hỏi: - Cha trở lại thăm quê hương Việt Nam từ năm nào? Bắt đầu công cuộc từ thiện bác ái khi nào và thực hiện ở đâu?


Lm Mỹ: - Vào năm 1999 tức là hai năm trước khi Cha chịu chức Lm, Cha trở lại thăm Việt Nam lần đầu tiên sau 16 năm xa cách. Tuy nhiên, phải đến sau khi chịu chức năm 2001 thì Cha mới có thể bắt đầu công cuộc từ thiện của Cha được.


Hỏi: Vì sao Cha thực hiện công cuộc mục vụ từ thiện ở quê hương Việt Nam?


Lm Mỹ: - Trong lần trở về quê hương lần đầu tiên, Cha đi từ Bắc đến Nam, Cha tận mắt chứng kiến cảnh khổ đau của những thân phận bất hạnh như người mồ côi, khuyết tật, người bệnh tật, cô đơn không nơi nương tựa.... Những thân phận đó đã gây xúc động lớn lao trong tâm hồn Cha. Cha nghĩ rằng phải làm cái gì đó để sẻ chia những bất hạnh này. Đó chính là lý do thúc đẩy Cha trở lại Việt Nam nhiều lần để làm từ thiện.


Hỏi: Con biết rằng Cha đã từng đi qua nhiều ngõ ngách, từ thành thị đến miền quê, từ miền sơn cước Cao Bằng – Lạng Sơn đến miền sông nước như Đồng Bằng Sông Cửu Long.v.v. xin Cha cho chúng con biết một số kết quả của công việc từ thiện của Cha? Cha thường giúp đỡ những ai và giúp đỡ bằng cách nào?


Lm Mỹ: Cha đã thực hiện nhiều chuyến hành trình từ thiện và đã thành lập một số trung tâm bác ái như Trung tâm bác ái Mẹ Têrêsa Calcutta ở giáo phận Bùi Chu, ở Tân Hương – giáo phận Vinh….. Bộ VCD “Hành Trình Kết Nối Yêu Thương 2007-2008” gồm 12 tập Cha vừa thực hiện xong sẽ cung cấp toàn bộ hình ảnh công việc của Cha ở Việt Nam như là giúp đỡ các em mồ côi khuyết tật của nhiều địa phương trong nước; giúp đỡ bệnh nhân cùi ở Hải Hậu –Nam Định, Di Linh – Lâm Đồng, Quỳnh Lập – Nghệ An, Thanh Hóa, Đắc Lắc, Qui Nhơn, Sóc Trăng; người nhiễm HIV-AIDS ở Vinh, Qui Nhơn, Huế; thăm đồng bào dân tộc ở Cao Bằng – Lạng Sơn, dân tộc Thái ở Nghệ An, dân tộc Thượng ở Tây Nguyên, giúp đỡ những người nghèo, người neo đơn, người phụ nữ lầm lỡ, xây dựng nghĩa trang cho trẻ tàn tật, trẻ mồ côi, cứu trợ đồng bào lũ lụt Miền Trung. v.v. Đặc biệt, Cha đã thành lập một số cơ sở bác ái như Trung tâm bác ái Mẹ Têrêsa Calcutta tại Tân Hương – GP Vinh, tại GP Bùi Chu và mới đây nhất là Mái ấm Mẹ Việt Nam nhằm bảo vệ sự sống,chống phá thai tại Bình Thuận-GP Vinh. Cha chia sẻ tình thương yêu với họ bằng những món quà như tiền mặt, gạo, mỳ tôm, thuốc men, sách vở, chăn màn, áo quần.v.v.


Hỏi: Cha đến đây với tư cách cá nhân hay là thuộc nhóm từ thiện nào khác?


Lm Mỹ: Cha đến đây và thi hành công tác từ thiện với tư cách cá nhân. Nếu cha làm việc trong một nhóm từ thiện nào đó thì phải tuân theo lịch trình đã định sẵn, cha đi với tư cách cá nhân nên rất dễ dàng di động đến nhiều địa điểm, nhất là đến những nơi vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, khi trở về Việt Nam Cha rất vui vì đi đến đâu Cha cũng nhận được sự cộng tác nhiệt tình của một số anh chị em thiện nguyện viên.


Hỏi: Theo con được biết thì hôm 12.5.2008 này, Cha sẽ kỷ niệm 7 năm ngày Cha lãnh nhận chức Lm, xin Cha cho chúng con biết công việc mục vụ của Cha khi ở Tổng giáo phận Adelaide?


Lm Mỹ: Được lãnh nhận thiên chức Lm là niềm vinh dự lớn lao. Trước hết, xin tạ ơn Thiên Chúa đã chọn Cha vào công việc người mục tử để Cha có thể phục vụ những người anh em một cách tốt nhất. Cha chịu chức và phục vụ ở TGP Adelaide phía nam nước Úc ngày 12.5.2001. Công việc của Cha bên đó là coi xứ, phục vụ trong các viện dưỡng lão, nhà thương, trường học công giáo, trại tù, cảm hóa những người nghiện hút, ma túy, mại dâm và cả những thổ dân Úc mà cuộc sống của họ còn khốn khổ và tệ hơn những người Việt Nam chúng ta bây giờ.


Hỏi: Ngày 10.5.2008 vừa qua, con được biết ĐGM Phaolô Cao Đình Thuyên đã đến cắt băng khánh thành Mái ấm Mẹ Việt Nam do cha thành lập để cưu mang những cô gái lầm lỡ tránh cho họ phải đi đến việc phá thai, xin Cha cho chúng con biết đôi nét về Mái ấm này?


Lm Mỹ: Trong một dịp đi Huế, Cha đã chứng kiến một sơ dòng Mến Thánh Giá trên 70 tuổi giúp đỡ hàng chục cô gái lầm lỡ, một công việc thầm lặng nhưng kết quả vô cùng cao và thuyết phục. Tấm gương đó đã làm cha khâm phục, nhiều anh chị em cộng tác với cha cũng khuyên Cha nên thiết lập một trung tâm bảo vệ sự sống phòng chống phá thai ở miền Bắc vì miền Bắc đã có các trung tâm khuyết tật nhưng chưa có trung tâm này. Được sự đồng ý của Đức Cha Phaolô, Cha đã cho xây dựng Mái ấm mang tên Mẹ Việt Nam tại giáo xứ Bình Thuận, xã Nghi Thuận, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trên mảnh đất 600m2 cùng cơ sở vật chất của một giáo dân là anh Hồ Văn Huynh dâng cúng. Trong vòng hơn 1 tháng, mái ấm đã được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của giáo dân toàn xứ. Ngoài nơi ăn nghỉ gồm 5 phòng chứa được 16 chiếc giường thì còn có công trình phụ và khu vực chăn nuôi…Bảo trợ cho Mái ấm là Mẹ Việt Nam, Cha đã đắp một pho tượng Mẹ Maria theo hình ảnh một bà mẹ Việt Nam mặc áo dài, đội nón ẵm Chúa Giê su trước sân trung tâm. Thời gian tới đây, Cha sẽ bắt đầu nhận người vào Mái ấm. Hiện tại, Mái ấm Mẹ Việt Nam đang nhận được sự giúp đỡ của các sơ thuộc hội dòng Thừa Sai Bác Ái Bình Thuận và nhóm Bảo Vệ Sự Sống dòng Chúa Cứu Thế và một số ân nhân khác. Tuy nhiên, phía trước vẫn còn nhiều khó khăn, mong tất cả mọi người cùng cầu nguyện cho hoạt động phò sự sống tại giáo phận Vinh nói riêng và Việt Nam nói chung.


Hỏi: Cha có một lối sống đặc biệt gần gũi với quần chúng giáo dân. Cha thường tham gia mọi hoạt động của giáo dân. Đến Bình Thuận, mọi người đều gọi Cha với cái tên trìu mến - “Cậu”. Người dân ở đây thường nhớ đến hình ảnh Cha cùng lăn lộn trên đồng ruộng để đi cày, bừa, gieo vãi với dân; đi chăn trâu với các em, đi đào khoai giữa trưa cho thợ. ..và biết bao nhiêu việc làm khác nữa. Đến nỗi người ta đã thốt lên chưa có ông cha nào bình dân đến thế. Người dân Bình Thuận đều rất muốn Cha ở lại với họ. Cha nghĩ sao về việc ở lại phục vụ Việt Nam vĩnh viễn?


Lm Mỹ: Cha rời quê hương lúc 13 tuổi, qua Úc sống 24 năm, Cha đã đi qua nhiều quốc gia, nhiều phương trời rồi nhưng Cha vẫn cảm nhận không nơi nào ấm cúng và đầy đắp tình người như ở quê hương chúng ta. Không có gì quí hơn việc được sống trên mảnh đất đã từng “chôn nhau cắt rốn” của mình, mảnh đất mà hàng thế kỷ trôi qua ông cha chúng ta đã sống bởi vì:


“Ta về ta tắm ao ta,


Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.


Xin Thiên Chúa thực hiện mọi điều Ngài muốn nơi con người của Cha, Cha nguyện đi bất cứ đâu và làm bất cứ việc gì miễn là sáng danh Thiên Chúa và Mẹ Maria nhân hiền.


Chúng con xin hết lòng cảm ơn Cha và nguyện xin Thiên Chúa đổ dồi dào muôn hồng ân trên Cha và công cuộc bác ái mà Cha đang thực hiện.

 

Trần Đức Hà

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

Sứ điệp của Tòa Thánh Vatican gởi đến các tín đồ Phật giáo trong ngày lễ Vesakh


“CHÚNG TA TIẾP TỤC LÀM VIỆC VỚI NHAU ĐỂ XÂY DỰNG MỘT THẾ GIỚI TỐT ĐẸP HƠN

VATICAN, 29/04/2008 (Zenit.org).- Sứ điệp Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đối thoại Liên Tôn giáo, gởi cho các phật tử nhân dịp lễ Vesakh. Thư có nhan đề “Những người Kitô Hữu và các Phật Tử: Chăm Sóc Địa Cầu.”


* * *

Các bạn Phật Tử thân mến,


1. Nhân dịp lễ Vesakh, tôi viết thư cho các bạn và các cộng đồng của các bạn trên khắp thế giới để gởi những lời chào nồng nhiệt của tôi, cũng như những lời chào nồng nhiệt của Hội Đồng Giáo Hoàng Đối Thoại Liên Tôn Giáo.


2. Điều làm cho tôi rất vui mừng là nhớ lại những tương quan tích cực các người Công Giáo và những Phật Tử đã thụ hưởng qua nhiều năm. Tôi tin tưởng rằng cơ sở này sẽ giúp tăng cường và đào sâu tình trạng chúng ta hiểu biết nhau vì chúng ta tiếp tục làm việc chung hầu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn không những cho chính chúng ta nhưng cho toàn thể gia đình nhân loại. Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng sự đối thoại nuôi dưỡng ý muốn trong con người và trong cộng đồng để chia sẻ thiện chí và sự hài hoà đã hiện hữu, và thực tế để vươn cách can đảm hơn tới những kẻ khác, sẵn sàng nắm bắt những thách đố và những khó khăn có thể nảy sinh.


3. Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI, trong Sứ Điệp 2008 của ngài gởi nhân ngày Thế Giới Hoà Bình, đã nhận xét: “Đối với gia đình nhân loại, nhà là địa cầu, là môi trường Thiên Chúa Sáng Tạo đã ban cho chúng ta để ở các sáng tạo và trách nhiệm. Chúng ta cần chăm sóc môi trường: môi trường được giao phó cho những người nam và những người nữ hầu được bảo vệ và được chăm bón với sự tự do có trách nhiệm, vì lợi ích của mọi người như là một tiêu chuẩn hướng dẫn trường kỳ” (số 7). Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã công bố năm 2008 như là Năm Quốc Tế của Địa Cầu. Với tư cách những cư dân của trái đất và những kẻ có niềm tin, những Kitô hữu và Phật Tử tôn trọng cũng một tiêu chuẩn và có một sự quan tâm chung về việc cổ võ sự chăm sóc cho môi trường mà tất cả chúng ta đang chung sống.


4. Việc bảo quản môi trường, sự cổ võ về việc phát triển lâu dài và sự chú ý cách riêng tới sự thay đổi khí hậu, là những vấn đề có sự quan tâm nghiêm trọng cho mọi người. Nhiều chính phủ, những tổ chức phi-chính- phủ, các công ty đa quốc gia, và những viện nghiên cứu và viện cấp ba (tertiary institutes), vì thừa nhận những hàm ý đạo đức hiện diện trong tất cả sự phát triển kinh tế và xã hội, đang đầu tư những nguồn tài chánh cũng như chia sẻ tài năng chuyên môn về sự khác biệt sinh vật học, sự thay đổi khí hậu, sự bảo vệ và bảo quản môi trường. Các nhà lãnh đạo tôn giáo, cũng vậy, đang đóng góp cho sự tranh cãi công khai. Sự đóng góp này dĩ nhiên không phải là phản ứng trước những đe dọa gây áp lực mới đây liên kết với sức nóng địa cầu. Trên thực tế chỉ qua một cuộc suy tư thâm sâu trên những tương quan giữa Thiên Chúa Sáng tạo, sự sáng tạo và các tạo vật mà những cố gắng xử lý những quan tâm môi trường sẽ không bị hãm hại bởi sự tham lam cá nhân hay là bị ngăn chận bởi quyền lợi của những nhóm riêng.


5. Trên mức độ thực tiễn chúng ta những Kitô hữu và các Phật Tử không thể làm gì hơn để cộng tác trong những dự án củng cố trách niệm tùy thuộc mỗi người và mọi người trong chúng ta sao? Sự tái chế, sự bảo tồn năng lượng, sự phòng ngừa việc phá hủy bừa bãi cây cối và sự sống thú vật và sự bảo vệ những dòng nước, tất cả đều nói về sự quản lý đầy chăm sóc, và thực tế nuôi dưỡng thiện chí và cổ võ những tương quan chân tình giữa các dân tộc. Làm như vậy, các Kitô hữu và những Phật Tử có thể cùng nhau là những người báo hiệu hy vọng cho một thế giới sạch, lành mạnh và hài hoà.


Các bạn thân mến, Tôi mong rằng chúng ta có thể cổ võ sứ điệp này trong những cộng đồng liên hệ của chúng ta qua sự giáo dục công khai và qua gương lành của chúng ta trong sự tôn trọng thiên nhiên và trong việc hành động có trách nhiệm đới với Địa Cầu chung của chúng ta. Một lần nữa tôi xin lặp lại những lời chào chân tình của tôi và cầu chúc các bạn một Lễ Vesakh Hạnh Phúc.


Jean-Louis Cardinal Tauran

Chủ tịch

Tổng Giám mục Pier Luigi Celata

Thư ký

Đức ông Nguyễn Quang Sách, chuyển ngữ

Mục lục

 

Tìm hiểu về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (Vesak)

 

Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (Vesak) là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc. Quá trình hình thành của ngày đại lễ này bắt đầu cách đây 9 năm và từ đó đã diễn tiến như sau:


Ngày 15/12/1999, tại phiên họp thứ 54 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, sau khi thảo luận Đề mục 174 của chương trình nghị sự, Đại hội đồng đã biểu quyết chính thức thừa nhận và đứng ra tổ chức Đại lễ Phật đản hay còn gọi là đại lễ Tam hợp (kỷ niệm ba ngày đức Phật đản sinh, Thành đạo và Nhập niết-bàn, thời gian tương đương với tháng 5 dương lịch). Ngày này được gọi là Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc và được xem như ngày lễ hội văn hoá tôn giáo thế giới của Liên Hiệp Quốc. Lễ hội sẽ được tổ chức tại trụ sở trung ương Liên Hiệp Quốc (thành phố New York, Hoa Kỳ) và các trung tâm Liên Hiệp Quốc ở các khu vực trên khắp thế giới từ năm 2000 trở đi.


Vào năm 2000, lần đầu tiên Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc đã được long trọng tổ chức tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York, với sự tham dự của các truyền thống tông môn pháp phái Phật giáo thuộc 34 quốc gia.


Tháng 5/2004, Hội thảo Phật giáo quốc tế (International Buddhist Conference, viết tắt là IBC) đã được chính phủ Hoàng gia Thái Lan bảo trợ và Trường Đại học Phật giáo Mahachulalongkorn tổ chức tại Trung tâm Phật giáo thế giới Buddhamonthon, với sự tham dự của trên 35 quốc gia và hàng trăm phái đoàn Phật giáo quốc tế.

 

Tháng 6 cùng năm, các hoạt động đại lễ Phật đản đã được tổ chức tại trụ sở Liên Hiệp quốc, New York, Hoa Kỳ.

 

Tháng 7 cùng năm, Hội thảo Phật giáo quốc tế về chủ đề “Phật giáo Thượng tọa bộ và Đại thừa” (Theravada and Mahayana Buddhism) được tổ chức tại hội trường Buddhamonthon và trung tâm Liên Hiệp Quốc, Bangkok, dưới sự bảo trợ của chính phủ hoàng gia Thái Lan và sự đồng thuận của Hội đồng Tăng thống Thái Lan (Thai Sangha Supreme Council). Tại hội thảo lịch sử này, các quốc gia tham dự đồng thuận Thái Lan làm nước đăng cai Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc vào năm 2005.


Trong phiên họp khoáng đại vào tháng 4/2005, Hội đồng Tăng thống Thái Lan đã công cử Trường Đại học Mahachulalongkorn làm đơn vị tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2005 lần thứ II. Kết quả là vào ngày 18-21/5/2005, Hội thảo Phật giáo thế giới đã được tổ chức để đánh dấu tuần lễ Vesak tại Sanamluang, Buddhamonthon và Trung tâm Liên Hiệp Quốc Châu Á Thái Bình Dương.

 

Trong thông cáo chung năm đó, các vị lãnh đạo Phật giáo từ 42 quốc gia đã chấp thuận Buddhamonthon là Trung tâm Phật giáo thế giới (Buddhist Center of the World) và cùng chấp nhận Trường Đại học Phật giáo Mahachulalongkorn làm đơn vị tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc những năm kế tiếp.


Vào ngày 9/9/2005, tại phiên họp khoáng đại, Hội đồng Tăng thống Thái Lan đã công cử Trường Đại học Phật giáo Mahachulalongkorn, từ nay, thay mặt Giáo hội Phật giáo Thái Lan để tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc.


Ngày 7-10/5/2006, tại Hội trường Liên Hiệp Quốc Châu Á Thái Bình Dương và Buddhamonthon, Đại lễ Tam hợp lần thứ III đã được tổ chức gắn liền với lễ kỷ niệm 60 năm lên ngôi của đức vua Bhumipol. Lãnh đạo Phật giáo từ 48 quốc gia đã tham dự Hội thảo Phật giáo quốc tế này. Trong thông cáo chung, tất cả đã ký vào bản thỏa hiệp chấp nhận Trường Đại học Phật giáo Mahachulalongkorn làm đơn vị tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2007, đồng thời kỷ niệm sinh nhật 80 tuổi của đức vua Thái Lan.


Ngày 26-29/5/2007, Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc lần thứ IV đã được long trọng tổ chức tại Hội trường Liên Hiệp Quốc Châu Á Thái Bình Dương và Buddhamonthon với sự tham dự của 62 đoàn đại biểu cấp quốc gia và cấp vùng.


Vào ngày 29/5/2007, trong lễ bế mạc, sau khi cứu xét thư thỉnh nguyện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và thư đăng ký đăng cai của Bộ Ngoại giao Việt Nam, Hòa thượng Dharmakosajarn đã căn cứ vào Hiến chương Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc để chính thức công bố trước hơn 500 đại biểu Phật giáo thuộc 62 quốc gia rằng Việt Nam sẽ là nước đăng cai Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc năm 2008, và Giáo sư Lê Mạnh Thát, Phó Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, sẽ làm chủ tịch Ban Tổ chức Quốc tế.


 Đại Lễ Phật đản LHQ năm 2008, do Chính phủ Việt Nam đăng cai phối hợp cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) và Ủy ban Tổ chức quốc tế (IOC) đồng tổ chức tại thủ đô Hà Nội từ ngày 13/5/2008 đến ngày 17/5/2008.


Với chủ đề “Sự đóng góp của Phật giáo về việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, Đại lễ Phật đản LHQ năm 2008 và Hội thảo Phật giáo quốc tế sẽ là sự gặp gỡ của 1.500 vị khách quốc tế bao gồm các vị lãnh đạo Phật giáo, các học giả, chính khách đến từ 95 quốc gia trên thế giới. 

 

Theo vietnamnet.vn

Mục lục

 

TÂM TÌNH CỦA LINH MỤC TỔNG ĐẠI DIỆN GIÁO PHẬN TP.HCM TRONG THÁNH LỄ KỶ NIỆM 10 NĂM ĐHY GIOAN BAOTIXITA PHẠM MINH MẪN NHẬN GIÁO PHẬN

 

Trọng kính Đức Hồng y rất quý mến.

 

10 về trước, cũng tại thánh đường chính tòa này, chúng con đã long trọng và hân hoan nghênh đón vị Tân Tổng Giám mục của Giáo phận.

 

Hôm nay, trong bầu khí hân hoan của lễ mừng trọng đại này, chúng con mới dám thú nhận với ĐHY rằng : tâm tình của chúng con lúc bấy giờ có điểm rất khác so với hôm nay, sau 10 năm nhìn lại.

 

Lúc bấy giờ, Giáo phận chúng con đã chịu cảnh trống tòa hơn 3 năm rồi, nên khi được tin Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ưu ái bổ nhiệm cho chúng con một vị Tổng Giám mục mới, đương nhiên tất cả chúng con, muôn người như một, ai ai cũng vui mừng cảm tạ Chúa và ghi ơn Đức Giáo hoàng; song le trong tâm trí của không ít người chúng con, niềm vui lớn vẫn không xóa tan được nỗi lo canh cánh, bởi lẽ Tổng Giáo phận này đối với Đức Tân Tổng Giám mục là “vừa to lớn, vừa xa lạ và cũng phải nói vừa phức tạp” như chính ngài đã bộc lộ qua bài trả lời phỏng vấn dành cho báo CG& DT.

 

Nhưng, trọng kính Đức Hồng y, tâm tình của chúng con ngày hôm nay hoàn toànn khác hẳn ngày xưa :

Hôm nay, sau 10 năm nhìn lại, tâm hồn chúng con trào dâng một lòng biết ơn vô hạn, biết ơn Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, và biết ơn Đức Hồng y là sứ giả nhiệt thành và trung kiên của Người sai đến với chúng con.

 

Thực vậy, 10 năm nhìn lại, không phải chỉ đối với chúng con là người trong cuộc, mà còn dưới cái nhìn của rất nhiều người ở bên ngoài, Công giáo và không Công Giáo, trong nước và ngoài nước, Tổng Giáo phận chúng con đã có những bước phát triển rất đáng phấn khởi trên nhiều phương diện :

 

Tổng Giáo phận ngày càng trở thành cộng đoàn cầu nguyện và hiệp nhất, cầu nguyện và hiệp nhất trong từng gia đình, từng giáo xứ, giữa các giáo xứ trong toàn Giáo phận.

 

“Cộng đoàn giáo phận ngày càng được thanh tẩy nhiều hơn, xa lánh những gì gây bất hòa và chia rẽ để dần dần trở thành cộng đoàn hiệp thông và yêu thương nhiều hơn để làm chứng cho Thiên Chúa tình thương”.

 

Hội thánh Chúa Kitô tại thành phố này đã ngày càng tiến gần hơn, hướng về đích điểm là trở thành “giếng nước đầu làng, nơi đó con người không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp…có thể đến kín múc dòng nước ban sự sống cho cuộc đời họ; là trở nên nguồn hy vọng cho tất cả những ai đang khổ đau và thất vọng: thất vọng vì không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, thất vọng vì gánh nặng của nghèo khó và bệnh tật, thất vọng vì cảm thấy cô đơn, lạc lỏng, bị gạt ra bên lề xã hội.” (trích bài giảng của ĐHY trong thánh lễ tạ ơn sau khi nhận mũ Hồng y).

 

Được như vậy rõ ràng là hồng ân trọng đại của Cha trên trời ban tặng, như chính Đức Hồng y đã thường xác định với chúng con, nên chúng con hôm nay xin cùng với Đức Hồng y và cùng với Quý Đức cha, Tổng Giám mục và Giám mục, quý vị khách quý, dâng lên Cha trên trời lời chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ sâu sắc nhất.

 

Thế nhưng, trọng kính Đức Hồng y.

 

Hồng ân trọng đại mà chúng con đã nhận được tử Thiên Chúa, là thông qua công cụ đắc dụng và rất hiệu quả của Người, đó là ngài, thưa Đức Hồng y khả ái của chúng con.

 

Thực vậy, liền sau ngày nhận nhiệm vụ Tổng Giáo phận, ĐHY đã dành nhiều thì giờ và công sức để tìm hiểu nhiệm sở mới, qua việc tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi với linh mục đoàn, tu sĩ đoàn, thăm viếng tất cả các giáo xứ, tiếp đến ĐHY đã tiến hành việc thiết lập văn phòng Mục vụ, các Ban Mục vụ, soạn thảo và công bố Quy chế Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, thiết lập Hội đồng Linh mục và Hội đồng Mục vụ Giáo phận, quy tụ anh chị em giáo chức, y bác sĩ, văn nghệ sỹ, công thương gia thành các nhóm sinh hoạt tông đồ chuyên biệt.

 

Chính là nhờ ĐHY mà chúng con nhận được hồng ân trọng đại của Chúa suốt 10 năm qua, nên giờ đây chúng con xin cúi đầu dâng lên ĐHY tâm tình tri ân chân thành và sâu sắc nhất của chúng con.

 

Và cuối cùng, hôm nay sau 10 năm nhìn lại, chúng con còn ngộ ra được một điều vô cùng quan trọng đó là sở dĩ ĐHY đã trở thành một công cụ và hiệu quả của Cha trên trời như thế là vì ĐHY có một niềm tin sâu xa và mãnh liệt vào Thiên Chúa Tình thương và vào mầu nhiệm ơn gọi.

 

Thật vậy, bải giảng ngày lễ nhậm chức Tổng Giám mục của ĐHY chính là lời tuyên xưng đức tin ; tin vào Thiên Chúa Tình thương đã hiến ban chính Con Một mình cho thế gian ;tin vào Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến thế gian để cho con người được sống và sống dồi dào; tin vào Chúa Thánh Thần là Đấng không ngừng hiện diện và hoạt động trong lịch sử trần thế, để canh tân và khơi nguồn sự sống.

 

Chính niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi là Cộng đồng hiệp nhất và Yêu thương, đã luôn thúc đẩy ĐHY can đảm mời gọi mọi thành phần Dân Chúa giáo phận vượt qua những bất đồng và khác biệt để xây dựng một cộng đồng yêu thương và phục vụ cho sự sống và phẩm giá con người vốn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa. Cũng chính niềm tin đó luôn thúc đẩy ĐHY manh dan mời gọi mọi tín hữu ra khơi, xông pha trước sóng gió ba đào để phục vụ cho sứ mạng loan báo Tin Mừng.

 

Cũng chính ĐHY đã không ngừng chia sẻ niềm xác tín của mình đối với Mầu nhiệm ơn gọi : ơn gọi trong Hội Thánh luôn xuất phát từ tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, chứ hoàn toàn không phải do tài đức của kẻ được gọi. Lịch sử đã cho nhiều điển hình minh họa : Phêrô kẻ chối Chúa lại được chọn để thay mặt Chúa làm đầu Hội thánh; Phaolô là kẻ bắt đạo lại được chọn làm Tông đồ dân ngoại, Mađalêna là cô gái điếm lại được chọn để loan truyền Tình yêu của Thiên Chúa.

 

Vì thế hôm nay 10 năm nhìn lại, một lần nữa chúng con xin bày tỏ với ĐHY tâm tình cảm nến và tri ân rất chân thành và sâu sắc của chúng con.

 

Lm. GB Huỳnh Công Minh

Tổng Đại diện Giáo phận TP.HCM

Mục lục

 

Sống hiệp thông chia sẻ

Có người nông dân dạy con trai mới lớn : muốn cho mướp ra nhiều trái phải bấm ngọn.

Cậu bé hỏi: tại sao?

Người cha trả lời : vì nó tức nên nó đâm trái.

Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.

Một em bé đứng trước thi hài ông nội, hỏi mẹ : Mẹ ơi sao ông nội chết vậy hả mẹ?

Mẹ đáp : vì ông nội già rồi.

Bé lại hỏi : thế bà nội già rồi sao không chết ? Chú Tư trẻ vậy sao lại chết.

Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng không tìm ra câu trả lời thoả đáng. Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.

Trong cuc sng, có nhiu điu l lùng mà trí khôn con người vn không bao gi hiu thu ni. Để din t các điu khó hiu ca cuc sng, cha ông ngày xưa mới đ nhau :

 

                    Đố ai biết lúa my cây,

                   biết sông my khúc,

                  biết mây my tng.

                 Đố ai quét sch lá rng,

                để ta khuyên gió,

               gió đng rung cây.

 

Có lẽ trong tt c mi điu khó hiu của cuc sng con người thì tình yêu là khó hiu nht. Ch nguyên đnh nghĩa tình yêu thôi cũng đ đ hao tn bao công sc và giy mc, qua các thi đi mà vn không có được mt đnh nghĩa din t trn vn ý nghĩa. Và vì không có được mt đnh nghĩa như vậy nên người ta mi coi tình yêu như là mầu nhim vy.

 

Thế nhưng, tình yêu ấy có đáng là gì so vi các mu nhim ca Thiên Chúa. Trong các mu nhim ca Thiên Chúa thì mu nhim Mt Chúa Ba Ngôi là cao c nht, khó hiu nht. Như sách giáo lý Giáo Hi Công Giáo khng đnh : “Mu nhim Thiên Chúa Ba Ngôi là mu nhim trng tâm ca đc tin và đi sng Kitô hu. Bi vì đây là mầu nhim v đi sng ni ti ca Thiên Chúa mà cũng là mu nhim ca Thiên Chúa “cho chúng ta”.

Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu,trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiễu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1 ?.

Vậy phi hiu và đón nhn mu nhim quá cao siêu này như thế nào?

 

Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt qúa mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.

Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.

- Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi.Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước ( Đnl 6,4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.

- Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. S thn Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thn s ng xung trên bà và quyn năng Đấng Ti Cao s che ch bà, vì thế Hài Nhi bà sp sinh ra s được gi là Con Thiên Chúa”. Nhng li đó cho biết: Đấng Ti Cao là Chúa Cha cùng vi Chúa Thánh Thn s lo cho Hài Nhi sp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan.Chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga 1, 32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán : Con là con Ta yêu dấu (Mt 1,11).Tiếng nói, chim câu,Chúa Giêsu,ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong ba tic ly, Chúa Giêsu ha vi các tông đ: “Thy s xin Chúa Cha và Người s ban cho anh em mt Đấng Bào Cha khác, đó là Thn Khí s tht…” Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bào Chữa là Thn Khí s tht, nghĩa là Chúa Thánh Thn cho các môn đ.

Trong phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”( Mt 28,19).Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô,tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.

Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi :Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa,dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về về thần tính và ưu phẩm,nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa.Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất.Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II : Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha, Chúa Cha chia sẽ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính.Đức Kitô thực hiện phần đầu.Ngài nhập thể,mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ.Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên,đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bổng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.

Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau.Ba Ngôi là một gia đình.Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau.Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo.Trung với Chúa,hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết,chỉ có thể đón nhận bằng đức tin.Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý.Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ,ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.

Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quang Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Giáo hội là dân tộc lữ hành,phát xuất từ Chúa Cha,sẽ trở về với Chúa Cha,nhờ trung gian của Đức Kitô,dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần.Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô,được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x.GH 1; GLCG số 772).Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội.Giáo hội là công trình của Ba Ngôi.Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.

Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá,Nhà Tạm,Bàn Thờ.Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá,Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ,chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha,để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài.Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô.Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.

Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh,cùng một sự sống đó là tình yêu thần linh.Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ.Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô,Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,34).Khi chia sẽ chén hiệp thông cuả Ba Ngôi,chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một( Ga 17,21).

Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa.Nói theo kiểu nói của Đức Hồng y Henry de Lubac : Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương.Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng.Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương.Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa.Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa,tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa.Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu,không gặp mâu thuẫn đau khổ.Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.

Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẽ,là ở lại trong tình yêu.Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác ”Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần”. Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mục lục

 

Đức Tin qua gặp gỡ

Trong đời sống, chúng ta đã có nhiều quen biết, cùng có nhiều kinh nghiệm về quen biết. Khi nghe câu nói „ tôi quen biết người đó“, ta nghĩ đến hai điều: một là quen biết qua nghe nói, qua đọc về người đó; hai là quen biết qua gặp gỡ cá nhân, qua đã có kinh nghiệm cùng chung sống trải qua với người đó rồi.

Hai lối quen biết khác nhau, nhưng lại bổ túc cho sự quen biết.

Tình cờ gặp gỡ quen biết ai, ta thường mong muốn tìm hiểu biết thêm về họ. Và ngược lại, khi nghe biết về người nào, ta cũng muốn có dịp gặp gỡ làm quen. Qua gặp gỡ làm quen cá nhân ta hiểu biết thêm, sâu rộng về tính tình, hoàn cảnh cuộc sống cùng ý thích của nhau hơn. Nhất là qua gặp gỡ giúp nhận ra rõ hơn bản tính đặc thù của người đó.

Trong đời sống đức tin, chúng ta tuyên xưng đức tin vào Một Thiên Chúa ba ngôi. Lời tuyên xưng đưc tin này là giáo huấn của Giáo Hội, xưa nay hằng chục thế kỷ đã có nhiều suy luận theo cung cách thần học cùng khoa học tìm tòi nghiên cứu để hiểu biết cho tường tận. Việc suy luận nghiên cứu tìm tòi này thật cần thiết hữu ích cho tâm trí con người về đời sống đức tin.

Nhưng trung tâm của lời tuyên xưng đức tin vào Một Thiên Chúa có ba ngôi nằm ở gặp gỡ kinh nghiệm cá nhân nhiều hơn ở nơi sự suy luận tìm tòi qua sách vở.

Thánh Tiên tri Maisen đã nhận ra quen biết Thiên Chúa qua gặp gỡ, qua kinh nghiệm bản thân với Ngài, "Chúa đi qua trước mặt ông và hô: Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa thương xót và từ nhân, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành". Môsê vội vã sấp mình xuống đất thờ lạy và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con có ơn nghĩa trước nhan thánh Chúa, thì xin Chúa hãy đi cùng với chúng con, (vì dân này là dân cứng đầu), xin xoá mọi gian ác và tội lỗi chúng con, xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Chúa". ( Sach Xuất hành 34,6-9).

Ngày xưa thời Thánh Tiên Tri Maisen thì thế. Còn thời nay chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa được không?

Cũng như ngày hôm qua, con người chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Thiên Chúa ba ngôi ngay trong đời sống ngày hôm nay.

Khi mở tầm nhìn con mắt, mở rộng cánh cửa tâm trí hướng ra chân trời thiên nhiên trong vũ trụ bao la, chúng ta nhận ra ai là tác gỉa, là Đấng Tạo Hóa đã dựng nên cùng duy trì không gian vũ trụ, sự đẹp đẽ, các biến chuyển trật tự lạ lùng nơi biển cả, trong không gian, dòng sông, núi non, cây cối, súc vật, cùng sự sống trong đó.

Chúng ta có thể gặp gỡ được Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kito, Đấng là Thiên Chúa đã xuống trần gian làm người sống giữa gần gũi con người. Nơi cuộc sống trong tương quan gặp gỡ giữa con người với nhau giúp nhận ra Thiên Chúa ở trong con người.

Chúng ta có thể gặp gỡ được Thiên Chúa, Đấng là hơi thở sức sống của con người, khi trong yên lặng nhìn vào chính đời sống tận trong thâm tâm với những qúa trình phát triển thay đổi.

Lễ kính mừng một Thiên Chúa ba ngôi thúc đẩy gợi hứng ta quen biết nhận ra Thiên Chúa không phải qua tìm tòi hiểu biết bằng suy luận sách vở, nhưng qua gặp gỡ có kinh nghiệm cá nhân bản thân với Ngài.

Martin Buber, một người sùng đạo Do Thái, đã trả lời câu hỏi „Tại sao Ông tin Thiên Chúa?“ với tâm tình: „ Nếu qủa thực có một Thiên Chúa mà ta có thể nói về Ngài, tôi sẽ không tin Ngài. Nhưng vì có một Thiên Chúa mà ta có thể nói chuyện với Ngài, nên tôi tin Ngài.“

Lm. Nguyễn ngọc Long

Mục lục

VẬY MÀ KHÔNG VẬY

 

Cuộc đời thực thực ảo ảo khó ngờ. Cuộc sống thật thật giả giả khó tin.Sự việc có có không không bất ngờ. Những điều ta nghe, nhìn thấy cũng luôn khó hiểu.

Thấy vậy mà không phải vậy,

Cùng chạy xe trên dòng kênh, có người nói: giáo xứ này đổ đường bêtông sau các xứ khác mà không học hỏi kinh nghiệm. Đổ đường ngang 2m thì 2 xe chạy ngược chiều tránh nhau rất khó.

Không ai rõ bằng chính mình, tôi cười. Đường 2.5m, nhưng lúc họ nhìn thấy 2m, là do cỏ hai bên bờ đường mọc phủ kín 2 mép đường. Vì thế chiều ngang hẹp lại, không còn đủ 2,5m nữa.

Họ đã nhìn tận mắt, thế mà lại sai hoàn toàn.

Thấy vậy mà không phải vậy,

Ngày nọ, Đức Khổng Tử cùng đệ tử đi dạy học ở nước Tề. Thời thế lúc ấy thật khó khăn, loạn lạc khắp nơi. Dạy học không có lương, dân làng thấy thương giúp cho gạo ăn, còn thức ăn thì thầy trò phải tự lo liệu.

Một hôm, ngày của Nhan Hồi trực nấu cơm, còn thầy thì đọc sách. Khi nghe tiếng động liền đi xuống bếp, thấy học trò đang mở vung nồi xới cơm và đưa vào miệng. Thấy vậy, Thầy lắc đầu, vì người thầy yêu quý giờ lại đi ăn vụng, thật buồn và nhìn lên trời than thở : “Người học trò tin cậy nhất của ta lại là kẻ ăn vụng!”

Đến lúc ăn cơm, mọi người ăn còn Nhan Hồi thì không. “Ăn vụng trước no rồi còn cần gì phải ăn nữa”. Thầy nghĩ vậy. Lúc anh em hỏi thì biết rằng : Nhan Hồi mở nắp vung nồi ra để kiểm tra xem cơm chín chưa, cùng lúc ấy, một cơn gió thổi đến kéo theo bụi và tro vào nồi cơm. Vì gạo ít, lấy bỏ đi lớp cơm dính tro thì tiếc, nên Nhan Hồi đã ăn phần cơm có tro ấy.

Khi nghe thế, thầy Khổng Tử ngước mặt lên trời và than : chính mắt ta nhìn thấy tỏ tường mà lại sai hoàn toàn.

Khổng Tử là bậc thầy trong dân chúng, thế mà còn hoàn toàn sai, dù chính mắt đã thấy.

Thấy vậy mà không phải vậy,

Câu truyện ông Gióp trong Cựu Ước thật thương tâm, tình hình gia đình đang ổn định, sung túc. Ông có một vợ, bảy trai ba gái; bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, một ngàn con bò, năm trăm  lừa cái, còn người làm thì không ít. Họ có lòng kính sợ Chúa. Họ thường thức sớm để thanh tẩy, xá tội, dâng lế toàn thiêu để xin xoá bớt tội lỗi do các con gây ra.

Rồi bỗng đâu chuyện lành kéo đi, chuyện dữ kéo đến đổ xuống gia đình ông. Nào là bò lừa bị dân Sơva ăn cướp, nào là người làm bị giết, nào là lửa từ trời xuống thiêu đốt chiên dê và đầy tớ, nào là người Canđê cướp lạc đà, nào là cuồng phong kéo đến làm sập nhà khiến con cái chết hết, nào là bệnh tật đổ lên người ông khiến cho bạn bè, vợ con than phiền kêu ca trách móc Thiên Chúa. Còn xa tan thì vui mừng vì sắp chiến thắng ông và Thiên Chúa.

Nhưng thực tế lại khác. Ông Gióp cúi đầu sấp mình sụp lạy và nói : “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Ngài lại lấy đi. Xin chúc tụng Đức Chúa” (G 1,21).

Thấy vậy mà không phải vậy,

Trong Tân Ước, sách Công vụ tông đồ chương 8 kể lại chuyện Hội thánh tại Giêrusalem bị thử thách. Mọi người tín hữu bị bách hại nặng nề khiến họ không thể ở lại mà sống, nên phải bỏ nhà cửa, quê hương sứ sở mà đến các vùng Giuđêa, Samari…trừ các tông đồ. Thấy tình hình như thế, nhiều người nghĩ là thôi hết rồi, hy vọng tồn tại còn khó, lấy gì mà phát triển.

Nhưng có ai ngờ rằng, chính những người di dân này khi đến nơi ở mới lại tiếp tục giới thiệu Chúa Kitô, Đấng bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại cho lương dân. Có nhiều người tin theo, gia nhập thành cộng đoàn. Dân số mỗi ngày một tăng và Hội thánh ngày càng phát triển nhiều hơn. Các giáo đoàn được thành lập.

Thấy vậy mà không phải vậy,

Nhìn vào cuộc đời của nhà lãnh đạo Giêsu, nhìn vào cái chết của Ngài trên thập giá nơi đồi Calvê, có ai lại dễ dàng tung hô và ca tụng, ngoại trừ thở dài thất vọng vì đã thất bại. Lãnh đạo gì mà chết tức tưởi vậy, đào tạo gì mà chỉ được có vài người đệ từ, một số ít đi theo. Đúng là chẳng còn gì để nói, càng không đáng để theo gót ông ta, nhìn ở góc độ con người. Nhưng thực tế có phải thế không?

Một người dám chấp nhận từ bỏ mọi vinh quang để đến với người khác.

Một người dám chấp nhận hy sinh thời gian để tìm kiếm an ủi những người bất hạnh, bị bỏ rơi, những người bệnh tật, người nghèo. Nghèo vật chất, kiến thức, sự thật, tình yêu, sự sống, chân lý…

Một người dám chấp nhận chịu hao mòn sức lực để phục vụ mọi đối tượng tôn giáo cũng như xã hội giúp cho cuộc sống họ bình an hạnh phúc hơn.

Một người dám chấp nhận không nghĩ đến bản thân để lo lắng cho con người được khôn ngoan, đức độ, cuộc sống tin tưởng hy vọng hơn.

Một người dám chấp nhận tự huỷ địa vị làm Chúa đến làm bạn với con người, dù con người không muốn hay tránh né Ngài.

Một người dám chấp nhận chết để bảo vệ công lý, sự thật.

Một người dám chấp nhận vâng phục Chúa Cha, đón nhận cái chết để bày tỏ tình yêu thực sự của mình.

Vậy Ngài là ai, là gì và ra sao? Ngài thành công hay thất bại? Ngài có đáng tin cậy không?

Một khi yêu, Ngài không còn nghĩ đến bản thân nữa. Là Chúa, là người, là Thầy, là anh, là bạn, là người phục vụ, là người tôi tớ, là người tội nhân, là gì gì cũng được, miễn là được yêu thương con người và được con người đón nhận tình yêu. Ngài như thế đó.

Đấng dám chấp nhận dành tất cả mọi sự : thời gian, sức khoẻ, đức độ, trí khôn, tinh thần, hơi thở, trái tim, sự sống cho con người. Còn con người thì sao?

Thấy vậy mà không phải vậy,

Các tông đồ của Chúa Giêsu đã có một thời gian hoảng loạn, sợ sệt, không dám đối mặt với biến cố của Thầy mình, càng không dám đối mặt với chính quyền đương thời, sợ chết mà. Lúc này, về quê cho xong, như hai môn đệ trên đường Emmaus. Lúc này, cửa đóng then cài là giải pháp an toàn, tập trung lại thành nhóm trong nhà thì yên tâm hơn, một thứ an toàn của loài người. Thấy các ông như thế thì có gì đáng tin.

Nhưng chỉ sau thời gian ngắn, mọi sự đã đổi thay. Các ông biến từ sợ hãi thành can đảm, tránh né thành đối mặt, buồn rầu thành niềm vui, thất vọng thành hy vọng, chán chường thành hăng say, đau khổ thành hạnh phúc, bất an thành bình an, sợ chết thành dám chết. Các ông đã thực sự hiến dâng đời mình cho lý tưởng phục vụ Chúa Kitô tình yêu và Hội thánh Người.

Thấy vậy mà không phải vậy,

Nhìn vào các gia đình, sao thấy khó hiểu quá. Lý do bởi đâu? Ta có thể dễ dàng thấy được đời sống của họ gặp trục trặc và rắc rối. Trục trặc do chủ quan, rắc rối bởi khách quan, trục trặc do kinh tế, rắc rối vì bệnh tật, trục trặc bởi tinh thần, rắc rối vì tương quan, trục trặc do tâm lý, rắc rối bởi tình cảm, trục trặc do tôn giáo, rắc rối bởi xã hội, trục trặc bởi người thân, rắc rối vì bạn bè, trục trặc do chưa rõ, rắc rối bởi chưa tường, trục trặc vì đôi mắt, rắc rối bởi đôi tai…

Trục trặc và rắc rối có thể vì khiếm khuyết, nhưng cũng có thể vì hấp tấp hồ đồ, thiếu bình tâm suy xét nên đã vội lớn tiếng, giơ tay, đưa chân… và gia đình lộn xộn.

Với điều xấu, điều chưa rõ, dù chỉ thấy một vài biểu hiện khác thường, hay nghe người này người nọ thắc mắc, lên tiếng, đàm tiếu thì nghi ngờ, rồi vội kết luận cho nhau. Thế rồi bầu trời u ám, giông bão lại kéo đến cả nhà phải lo sợ, buồn phiền, cây đắng, chịu đựng.

Còn những tư tưởng, lời nói và việc làm tốt, điều hay lẽ phải đối với vợ, chồng con cái thì so đo tính toán, xem xét cẩn thận, kế hoạch tỉ mỉ, chương trình kỹ lưỡng, suy nghĩ đắn đo, thăm dò thận trọng.

Chân lý và sự thật, tình yêu và hạnh phúc nhiều như không khí bao trùm quanh ta, nhưng rất nhiều người lại không hưởng được, vì thấy vậy nhưng lại không phải vậy.

Thanh Thanh

 

Mục lục

 

 

MẸ LÀ NGUỒN CẬY TRÔNG

 

            Lời cuối cùng Chúa Giêsu nói với Mẹ Người là lời trối trăn vô cùng quí giá đối với tôi. Người đã nói như nói với chính tôi:

 

“Đây là Mẹ con.” (Ga 19,27)

 

Lời cuối cùng này đã ghi vào lòng tôi một dấu ấn không bao giờ có thể phai mờ được bởi, khi Chúa Giêsu đau khổ trong suốt cuộc khổ nạn vác thập giá lên đồi Calvariô, Người đã nhìn thấy Mẹ Maria từ xa, đến gần và rồi là ôm ấp thân thương. Không có niềm xúc động lòng người mãnh liệt nào bằng hình ảnh đầy dịu ngọt và cũng đầy ăm ắp tình mẹ con.

           

            Bao nhiêu đau khổ từ cuộc khổ nạn đầy thương tích. Thế mà Chúa Giêsu vẫn đứng vững, vẫn tiếp tục leo lên núi Sọ với tất cả một lòng trung tín vâng phục. Bao nhiêu cay đắng tủi nhục đè lên tâm hồn và thân xác của Chúa. Nhưng tất cả đều không làm Người gẫy đổ và tan nát. Cảm nghiệm của tôi về sức chịu đựng bền bỉ của Chúa chính là tình mẫu tử mà Chúa đã cảm nếm được, đã thêm sức mạnh cho Người trong cuộc hành hình kinh khủng của bọn đao phủ.

 

Chính vì trải qua cảm xúc quá đỗi bình an, êm ái do Tình Mẹ ấy mà Chúa đã không thể nào không trao lại Mẹ Maria cho loài người trong cuộc đời lữ hành trần gian đầy những thử thách và đau khổ trước khi về “Nhà Cha”. Một tình yêu không chỉ để xóa tội nhân loại trong thần thánh mà còn là tình yêu bằng tất cả trái tim của một con người trần thế, một con người hiện sinh, một con người tràn đầy trái tim nhân loại. Trái tim của Thiên Chúa làm người đã thấu hiểu tâm hồn thiết thực của con người, của tha nhân, của một đàn em đông đúc đang còn phải trải qua những gánh nặng chồng chất. Vì thế, Ngài đã quá đồng cảm nên Ngài đã nói:

 

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28)

 

Và Ngài đã bồi dưỡng bằng nhiều phương cách khác nhau. Nhưng cách êm ái đối với tôi, đấy chính là Mẹ Maria, người mẹ yêu quí của Ngài cho tôi, cho chính tôi đây.

 

Tôi được một linh mục thân quen ở Mỹ để lại một bức tượng Đức Mẹ Mễ Du bằng đá cẩm thạch. Bức tượng nhỏ nhắn và xinh xắn mà vị linh mục đó đã mua tại thánh địa Mễ Du và đã thánh hiến dưới chân Mẹ. Ngoài bức tượng vô giá trên, người còn tặng tôi một bài “Thánh ca Đức Mẹ Mễ Du” do nữ nhạc sĩ Hải Triều phổ nhạc. Lời nguyên tác của linh mục Fr. Stanko Vasilj. Lời Việt do linh mục Jos. Nguyễn sông Núi.

 

Tôi đã tập đi tập lại bài hát và đã làm rung động tâm hồn tôi không chỉ bằng giai điệu êm ái mượt mà mà còn bằng ngôn từ rất ư là gần gũi bình dị thân thương. Trong đó có đoạn viết:

 

Mẹ ơi, xin Mẹ nhìn trông vỗ về. Cùng xin Mẹ ủi an chở che. Bàn tay của Mẹ tràn trề quyền năng. Bàn tay Mẹ rất dịu dàng, thương xót ân cần đặt trên chúng con.”

 

Đến một ngày nọ, cách nay hai năm. Vì là một người bại liệt đi đứng lê lết rất khó khăn, nên sau khi ngủ dậy, tôi tìm cách đi vệ sinh. Bất ngờ, tôi không còn giữ vững thân mình trên đôi chân quá yếu ớt. Nên tôi đã quị xuống rất mạnh. Một cơn đau kinh khủng đã buộc vợ tôi phải lôi tôi ngồi trên một chiếc ghế nệm gần đó. Gần một buổi sáng đau nhức vì hai gót chân đã quá ê ẩm và thâm tím. Cơn đau kéo dài. Nhưng khi nhìn lên tượng Đức Mẹ Mễ Du, tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ dưới chân thập giá. Và tim tôi bừng lên một khát vọng cậy trông vào Mẹ.

 

Tôi lấy bản nhạc “Thánh ca Đức Mẹ Mễ Du” và bắt đầu hát với tất cả niềm tin yêu và cậy trông. Sau bốn lần hát đi hát lại vời lòng thiết tha khôn nguôi, với một rung động tận sâu cõi lòng. Tôi cảm thấy êm ái lạ thường. Tôi cảm nhận một sự bình an rất sảng khóai. Và khi có nhu cầu cần phải đi, thoạt tiên tôi cứ ngỡ sẽ phải lê lết, sẽ phải nhờ người dìu đưa. Nhưng thật bất ngờ. Đôi chân tôi đã trở lại bình thường, không còn cảm giác đau nhức nữa.

 

Tôi đã đứng lên và bước đi với một nỗi kinh ngạc. Sự kinh ngạc đã khiến tôi nghĩ đến ơn chữa lành mà tôi đã đặt hết vào “Bàn tay tràn trề quyền năng, bàn tay dịu dàng thương xót ân cần” của Mẹ.

 

Đó là dấu ấn ghi đậm trong cuộc đời tôi từ khi tôi trở về với Chúa. Cuộc trở về của tôi luôn có sự dìu dắt của Mẹ vì Mẹ đã dậy tôi: “Người bảo gì, anh cứ làm theo.

 

Mẹ là nguồn cậy trông của tôi.

 

Đó là lời kết thúc bài viết này với một lòng chân thành cùng gửi đến những ai chưa đặt niềm cậy trông nơi Mẹ. Hãy đến với Mẹ Maria bằng tâm tình người con mà Chúa Giêsu đã trao ban:

 

Đây là Mẹ con”

 

 và bằng niềm tín thác vâng theo Mẹ:

 

 “Người bảo gì, các con cứ làm theo.”

 

Lạy Mẹ Maria, con xin tạ ơn Mẹ ví Mẹ là nguồn cậy trông của con! Amen.

 

Nhớ về Mẹ với tâm tình yêu mến, tháng 5/2008

 

Phêrô Vũ văn Quí CVK64

Email: peterquivu@gmail.com 

Mục lục

 

 

CHỨNG NHÂN ĐÊM LỄ HỘI GIA ĐÌNH 2007

            Năm nay, ngày Lễ Thánh Gia, lần đầu tiên ở Trung Tâm Mục Vụ có tổ chức Đêm Lễ Hội Gia Đình cho toàn Giáo Phận.

            Nhìn lên bầu trời giăng mây trắng xám, ai cũng lo : chỉ cần một cơn mưa là xóa sạch mọi lao khổ chuẩn bị cho chương trình.

          Những hạt mưa nhỏ lâm râm khi bắt đầu giờ các gia đình cùng lần hạt Mân Côi. Tâm nguyện của hàng ngàn người dâng lên trước tòa Chúa, và dấu lạ đã xảy ra: những giọt mưa ngưng lại, có lẽ vì các đám mây đứng yên nghe lời nguyện cầu mà quên không thả những giọt mưa xuống nữa.

            Không gian thoáng đãng, trong lành, thánh thiện và bình an lan tỏa trong tâm hồn mọi người theo từng lời kinh Kính Mừng Mẹ Maria đầy ơn phúc.

            Chủ đề Đêm Lễ Hội Gia Đình 2007 là : “Gia Đình Môi Trường Giáo Dục và Sống Hiệp Thông”. Cụ thể các gia đình sẽ quyết tâm sống hiệp thông trong 4 lãnh vực cụ thể :

            1. Làm việc chung,

            2. Giải trí chung,

            3. Ăn cơm chung và

            4. Cầu nguyện chung.

Các chứng nhân sống đời gia đình lên chia sẻ chuyện đời mình, những người biết Sống Đạo Giữa Đời Thường.

1. Gia Đình Làm Việc Chung

Anh Phi chập chững từng bước lên lễ đài với cây gậy chống lên đôi chân giả, còn chị Khanh là vợ anh nhấc mình lên những bậc thang bằng đôi tay chống lên chiếc ghế mà di chuyển, vì đôi chân chị đã cụt gần hết. Chỉ có cậu con trai tên Hòa còn lành lặn đi theo ba mẹ lên làm chứng.

Đó là vào ngày cuối cùng tháng 04 năm 1975, năm chấm dứt chiến tranh, những tưởng cũng chấm dứt hết mọi nỗi khổ đau. Nhưng không thể ngờ, một nỗi thống khổ lớn lao hơn, nghiệt ngã hơn đã đổ chụp lên cuộc đời cô thiếu nữ 18 tuổi thanh. Một viên đạn lạc cuối mùa chiến tranh đã cắt đứt đôi chân của cô bé như cắt đi cả tương lai của cô.

Khanh là chị cả trong gia đình có 7 anh chị em. Ba cô đã tử trận trong chiến tranh để lại người vợ trẻ với đàn con dại mà đứa út mới 4 tuổi đầu. Trước khi tai họa ập xuống, Khanh còn là một thành viên trong ca đoàn, tích cực tham gia sinh hoạt tập thể. Thế nên khi tỉnh lại trên giường bệnh thấy chỉ còn lại nửa thân mình, cô buồn bã chán nản gần như tuyệt vọng. Nếu không có niềm tin được nuôi dưỡng trong một gia đình Công Giáo gốc còn âm ỉ trong cô, nâng dậy một niềm hy vọng và tín thác vào Đấng Tối Cao thì cô đã tự kết liễu đời mình rồi. Gia đình đúng là môi trường đầu tiên giáo dục và nuôi dưỡng đức tin cho con cái, không gì có thể thay thế được

Năm 1980, Khanh đến Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng với hi vọng có thể được lắp đôi chân giả để đi lại dễ dàng hơn. Thế nhưng mọi nỗ lực của Khanh để đứng vững trên đôi chân của mình (dù là chân giả!) đều thất bại. Đôi chân cô cụt sát quá nên không thể lắp chân giả được. Trong nỗi thất vọng cùng cực đó thì Chúa lại ban cho cô một niềm hi vọng mới. Cô có một tình yêu mới : đó là anh Phi, người bạn đời đang đứng lên làm chứng với cô trong Đêm Lễ Hội Gia Đình 2007. Anh là một thương binh của chế độ cũ, cũng đến Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng để lắp chân giả. Trời xui khiến cho hai mái đầu xanh gặp nhau. Họ quyết định gắn bó phần đời còn lại với nhau, dù rằng chỉ có thể dìu nhau trên đôi chân giả của anh và chiếc ghế gỗ thay đôi chân của chị. Họ đã đi đến hôn nhân ngày 1-5-1983 và sinh được hai cháu. Cô con gái lớn 25 tuổi đã lập gia đình. Hòa, cậu con trai út 23 tuổi tốt nghiệp trường Đại Học Nông Lâm năm ngoái. Không chút mặc cảm vì nhà nghèo hay cha mẹ tàn tật, Hòa còn thấy hãnh diện vì gia đình khó khăn đến thế mà cha mẹ vẫn cố lo cho 2 chị em ăn học. Khi được hỏi động cơ nào giúp em đứng vững đến ngày nay, Hòa cho biết chính mẫu gương phấn đấu vượt khó của cha mẹ, chính tình yêu gia đình giúp cho Hòa cố gắng học để không phụ lòng mẹ cha, và hy vọng sau này làm được gì để đền đáp công ơn trời bể đó.

Gần 30 năm trời, hai con người tàn mà không phế gắn bó với nhau không rời. Họ làm đủ mọi nghề để mưu sinh và nuôi hai con ăn học. Khi thì đan mây tre lá. Lúc thì đan áo móc len. Cũng có khi hai vợ chồng dong duổi trên chiếc xe 3 bánh tự chế bán vé số. Khi có được chút vốn thì sang lại sập vải bán ngoài chợ.

Có phải chăng nhờ tàn tật như vậy mà họ đồng cảm được với nhau, nương tựa vào nhau mà sống. Vợ chồng cùng làm việc chung với nhau. Dìu nhau vượt qua gian khổ, bất chấp hoàn cảnh nghiệt ngã mà bom đạn đã cướp mất đi cả hai đôi chân của họ.

Thời buổi kinh tế thị trường này, rất nhiều gia đình có đầy đủ sức khỏe, dư thừa của cải, thế mà họ lại không có cơ hội làm việc chung với nhau. Chồng làm việc của chồng. Vợ lo việc của vợ. Dần dần khoảng cách hai người càng xa. Ở chung trong một nhà mà như là chỉ “góp gạo ăn cơm chung”. Thế rồi hậu quả là những rạn nứt dẫn đến những cuộc chia tay. Chứng từ của gia đình khuyết tật Phi + Khanh trong đêm Lễ Hội Gia Đình làm hàng ngàn người tham dự rung cảm khi nhìn thấy hình ảnh người chồng chống gậy từng bước xuống sân khấu bên cạnh người vợ chỉ còn nửa thân mình chống hai tay trên chiếc ghế gỗ thay đôi chân lết đi. Hoa trái sự gắn kết thủy chung của họ là cậu con trai lớn mạnh tự tin từng bước theo cha mẹ đi làm chứng nhân giữa đời thường.

2.Gia Đình Giải Trí Chung

Đời sống gia đình không phải lúc nào cũng lam lũ chạy giựt từng miếng cơm manh áo. Chúa tạo dựng nên con người để họ sống, và sống an nhàn hạnh phúc. Sau những giây phút căng thẳng mệt mỏi ở thương trường hay công sở. Những lúc chiều tối hoặc những ngày nghỉ phải là những giây phút sum họp quý báu của gia đình. Gia đình thứ hai lên làm chứng là Anh Nhàn và chị Châu. Anh chị có một đứa con gái và hai đứa cháu ở quê lên trọ học đã biết tận dụng những giây phút thư thái ấy. Sau khi ăn cơm tối, gia đình anh thường xem chung chương trình tivi tin tức trong và ngoài nước, rồi bàn bạc thời sự với nhau. Sau đó cả nhà cùng xem chung với nhau những chương trình thích hợp cho mọi người. Có khi mọi người cùng thảo luận về những vấn đề trong một cuốn phim hay một vở kịch.

Đã có những gia đình mà mỗi người một thế giới riêng. Buổi tối không còn hình ảnh gia đình sum họp quây quần bên nhau nữa. Người cha mải miết bên chồng báo. Mẹ say sưa thưởng thức tuồng cải lương. Và con cái thì dán mắt vào phim hoạt hình hay những trò chơi điện tử. Không ai nói với ai câu nào. Sau đó mạnh ai nấy vào phòng ngủ. Chấm dứt một ngày sống. Và cứ thế “một ngày như mọi ngày”. Gia đình : môi trường sống hiệp thông không còn nữa!

Gia đình anh chị Nhàn cũng dành những ngày Chủ Nhật, nghỉ lễ để cùng đi giải trí chung với nhau. Thỉnh thoảng họ dẫn nhau đi siêu thị, chủ yếu là ngắm nghía chứ không phải mua sắm. Hoặc rủ nhau đi dã ngoại, sống một ngày ngoài trời để thư giãn. Những sinh hoạt, giải trí chung như thế tạo thêm bầu khí yêu thương, đầm ấm cho gia đình.

3. Gia Đình Cầu Nguyện Chung

Cặp gia đình khiếm thị lên làm chứng về việc cầu nguyện chung là vợ chồng anh Giuse Nguyễn văn Thân và chị Têrêsa Trúc Ly.

Lúc 3 tuổi Trúc Ly bị đau ban hư một mắt. Gia đình cố gắng chữa trị cho Ly, nhưng ở quê, điều kiện y tế khó khăn, càng chữa càng nặng. Cuối cùng Trúc Ly lại mù thêm một con mắt nữa. Cả một bầu trời đen tối chụp xuống đầu cô bé. Mới đầu Ly rất buồn vì nghĩ chỉ có mình bị số phận đen tối này thôi, chẳng biết tương lai đi về đâu. Nhưng sau này khi được vào học trong trường khiếm thị, biết nhiều bạn cùng cảnh ngộ như mình, cùng nhau chia sẻ cuộc sống của những người không còn “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn” nữa, được tập đọc, tập viết, từ từ rồi Trúc Ly chấp nhận thực tế cuộc sống của mình, và không buồn nữa.

Nói về chuyện tình của mình với người chồng đồng cảnh ngộ, Trúc Ly cười tươi cho biết : “Trúc Ly nghe nói: con trai thì yêu bằng mắt, con gái thì yêu bằng tai. Ly gặp anh Thân, tuy không thấy hình dáng anh ấy như thế nào, nhưng nghe anh nói chuyện dễ thương, Ly quý mến, rồi yêu, rồi lấy nhau luôn!”

Hai mảnh đời sống trong bóng tối vì không còn đôi mắt, nhưng tận trong tâm hồn, họ vẫn sáng lên trong lòng tin, lòng cậy và lòng mến. Đôi mắt tâm hồn họ đã được mở ra để nhận biết Chúa vẫn yêu thương họ. Trái tim họ vẫn mở ra để yêu thương gắn bó với nhau suốt cuộc đời. Nếu đôi mắt đức tin họ không được mở ra thì làm sao chịu nổi nghịch cảnh này. Hai vợ chồng trẻ có được đứa con mấy tháng tuổi, vợ phải ở nhà trông con, chồng dò dẫm đi bán vé số bị xe tông gẫy chân, lo chạy thuốc hết cả vốn. Thất nghiệp. Không tiền trả nhà trọ. Hết vốn bán vé số. Con không tiền mua sữa. Những người sáng mắt có đủ can đảm để nhìn thẳng vào sự thực này để đón nhận và vâng theo ý Chúa không?

Bí quyết để cặp vợ chồng mù này sống bình an hạnh phúc là gia đình cầu nguyện chung với nhau. Anh cho biết : “Mỗi buổi sáng khi thức dậy, chúng con cầu nguyện chung với nhau 10 phút, rồi dặn lòng là không nên giận hờn, nhưng nên sáng suốt tránh gây gỗ và nên nhịn nhục tất cả. Buổi tối trước khi đi ngủ, chúng con lần hạt và cầu nguyện 30 phút, rồi nhớ lại xem hôm nay mình có nóng giận với ai không. Chúng con xin lỗi Chúa, cảm ơn Chúa rồi đi ngủ.”

4. Gia Đình Ăn Cơm Chung

Gia đình chứng nhân thứ tư thuộc nhóm Bạch Tuyết và các Chú Lùn Chim Cánh Cụt.

Những thành viên trong nhóm này là những người chậm phát triển chiều cao được nghệ sĩ Bạch Tuyết quy tụ lại từ nhiều miền trên đất nước, lấy tên là “Nhóm Các Chú Lùn Chim Cánh Cụt”. Họ sống chung với nhau như một tổ ấm, tự lực cánh sinh bằng cách ban ngày đi làm nhà hàng, tối đi trình diễn ca nhạc tạp kỷ. Khi lớn lên, họ cũng cưới vợ gả chồng, sinh con như những gia đình bình thường khác.

Cặp vợ chồng lên làm chứng gần 40 tuổi chỉ cao gần một thước. Hai người sinh hoạt chung trong nhóm, có dịp làm việc chung với nhau, quen nhau và lấy nhau. Sau 5 năm thành hôn, họ sinh được một cô con gái, nay được 18 tháng. Lạ một điều là đứa con lớn lên bình thường chứ không thiếu thước tấc như cha mẹ.

Hai vợ chồng có cuộc sống rất đầm ấm, hạnh phúc. Anh đi làm về nhìn thấy con vui đùa thì hết mệt. Chị ở nhà trông con và lo cơm nước cho chồng. Trên bàn đã có sẵn cơm canh để vợ chồng cùng vui vẻ ăn cơm chung. Vợ chồng chim cánh cụt nhắn nhủ những tham dự viên nên ăn cơm chung cho vui chứ đừng ăn cơm riêng. Gia đình họ gắn bó hiệp thông được với nhau nhờ những bữa ăn cơm chung như thế. Đúng là :

“Cơm dưa muối khó khăn mới có,

Của không ngon nhà khó cũng ngon.

Khi vui câu chuyện thêm giòn,

Chồng chồng vợ vợ con con một nhà!”

Không khí đêm lễ hội thật vui vẻ và ý nghĩa vì có những chứng nhân lạ lùng như vậy, và lên đỉnh điểm khi các gia đình cùng nhau thì thầm bên Thánh Thể trong một không gian thật linh thánh.

Đêm Lễ Hội Gia Đình đã khép lại, nhưng lại mở ra cho tâm hồn mỗi người viễn cảnh mới với quyết tâm cả nhà cùng làm việc chung, giải trí chung, ăn cơm chung và cầu nguyện chung với nhau để gia đình thực sự là môi trường giáo dục và sống hiệp thông tuyệt hảo nhất.

 

Lm. Giuse Trần Đình Long, SSS

Mục lục

 

ĐỨC TIN VÀ HY VỌNG CỦA VỢ CHỒNG CÔNG GIÁO

Jean-Michel và Françoise Godin là cặp vợ chồng Công Giáo Pháp dấn thân hoạt động tông đồ trong nhóm mục vụ của Giáo Phận Cambrai có tên là SÉDIRE. (SéDiRe: Séparer/Divorcer/Remarier - Ly Thân / Ly Dị / Tái Hôn).

Giáo phận Cambrai thật rộng lớn nằm ở miền Bắc nước Pháp. Ông Jean-Michel Godin từng sống kinh nghiệm ly dị. Sau đây là chứng từ của ông về lộ trình đi từ cái hổ thẹn của một cuộc hôn nhân thất bại đến niềm vui chia sẻ với Francoise người bạn đường thứ hai.

Tôi là tín hữu Công Giáo sống đạo chân thành. Tôi thường xuyên tham dự Thánh Lễ và lãnh bí tích Giải Tội. Thế rồi cuộc hôn nhân đổ vỡ. Chúng tôi ly dị chia tay mỗi người mỗi ngã. Trong vòng 2 năm trời, tôi không dám bước chân vào thánh đường. Tôi sống kinh nghiệm xấu hổ và lo sợ. Tôi tìm cách trốn tránh cái nhìn trách cứ của người khác. Cuộc gặp gỡ với các Linh Mục cũng thất bại. Các ngài không hiểu hoàn cảnh của tôi.

Vận may đưa tôi gặp Francoise, hiền thê tương lai của tôi. Nàng vừa là tín hữu Công Giáo sùng đạo vừa là người độc thân. Chúng tôi quyết định đi đến hôn nhân và cử hành hôn lễ theo phép đời. Sau đó chúng tôi mời bạn hữu đến chung vui trong vòng thân mật. Hiền thê tương lai của tôi có người anh làm Linh Mục. Với hiền huynh Linh Mục chúng tôi chuẩn bị cho hôn lễ bằng một buổi Cầu Nguyện thật chân thành và thật sốt sắng nơi một căn phòng được trang hoàng cho dịp này. Căn phòng nối liền với phòng ăn dùng cho bữa tiệc cưới.

Sau khi thành hôn, hiền huynh Linh Mục mời chúng tôi tham dự các buổi Gặp Gỡ dành riêng cho các người ly dị và các cặp vợ chồng Công Giáo ly dị tái hôn. Chúng tôi tích cực tham gia và trở thành Đại Diện của Ủy Ban Mục Vụ Giáo Phận về Gia Đình trong vòng hơn 10 năm.

Cùng thời gian này, tôi tiến hành các thủ tục để xin tòa án Giáo Phận tuyên bố hôn nhân thứ nhất của tôi bất thành. Thật là chặng đường gian nan. Bởi lẽ, tôi bị bắt buộc moi-móc trở lại quá khứ, một quá khứ đau thương mà tôi hằng mong muốn quên đi! Cuối cùng, tòa án Giáo Phận tuyên bố hôn nhân thứ nhất bất thành vì thiếu một trong ba điều kiện nền tảng khiến cho hôn nhân thành sự:

- Thiếu sự ưng thuận tự do hoàn toàn.

Sau khi được tuyên bố hôn nhân thứ nhất bất thành, tôi chính thức kết hôn với Francoise theo phép đạo. Hôn lễ của chúng tôi được cử hành nơi nhà thờ giáo xứ. Thật là niềm vui bao la được trở lại thánh đường lãnh nhận các Bí Tích và được tham dự vào mối Hiệp Thông của Giáo Hội Công Giáo. Đặc biệt chúng tôi hân hoan rước Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU, hồng ân Thánh Thể mà trong một thời gian dài thật dài chúng tôi không được diễm phúc lãnh nhận.

Với kinh nghiệm đau thương của tín hữu Công Giáo ly-dị tái-hôn không được phép lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, chúng tôi dấn thân hoạt động tông đồ cạnh các cặp vợ chồng Công Giáo ly dị và tái hôn. Chúng tôi hiện diện và chia sẻ nỗi đau khổ triền miên của họ. Chúng tôi muốn nói với họ:

- Mỗi tín hữu đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội là một phần tử nguyên vẹn của Giáo Hội Công Giáo.

Chính vì sự thật này mà chúng tôi thường tổ chức các buổi cử hành Phụng Vụ Lời Chúa và Cầu Nguyện trước mỗi cuộc hôn nhân dân sự của các cặp vợ chồng Công Giáo ly dị và tái hôn. Các buổi cử hành này luôn luôn mang lại cho các cặp vợ chồng tái hôn và những người hiện diện một niềm an ủi thiêng liêng thật vô bờ.

... Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Chúa GIÊSU để thử Người. Họ nói: ”Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” Đức Chúa GIÊSU đáp: ”Các ông không đọc thấy điều này sao: ”Thưở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ” và Đấng Tạo Hóa đã phán: ”Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì THIÊN CHÚA đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Matthêu 19,3-6).

(”Annales d'Issoudun”, Revue de Notre Dame du Sacré Coeur, Février 2008, trang 9)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Tài liệu học tập chuẩn bị Đại hội Thánh Mẫu La Vang (13-15.8/2008):

MẸ MARIA, NHÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN

 

Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo”(Ga 2,5)


DẪN NHẬP:


Đường hướng mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vạch ra cho năm 2008 là giáo dục. Vấn đề giáo dục là vấn đề rất quan trọng cho đời sống của một con người cũng như của xã hội và dân tộc. Trong các lãnh vực giáo dục khác nhau, thì giáo dục đức tin là việc quan trọng nhất. Đáp lại lời mời gọi của Công Đồng Vaticano II mong ước mọi người kitô hữu “ngước mắt nhìn lên Đức Maria là mẫu gương nhân đức sáng ngời cho đoàn thể cộng đoàn những người được chọn” (L.G.L 65)…Đại hội Thánh Mẫu Toàn Quốc lần thứ 28 (13 –15/ 8/ 2008) cũng muốn qui tụ con cái Mẹ khắp nơi về Linh Địa La Vang để chiêm ngưỡng và học nơi Mẹ cách sống của người Con Chúa, của người môn đệ Đức Kitô là vị Thầy duy nhất trong lãnh vực đức tin, như có lần chính Ngài đã khuyên bảo các môn đệ của Ngài: “Phần anh em, đừng để ai gọi mình là Thầy, Vì anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23,8).


Trong các lãnh vực khác của đời thường, cũng có những vị thầy đứng trên bục giảng ở các trường học, chỉ dạy cho môn sinh của mình những kiến thức bổ ích cho cuộc sống. Bên cạnh các vị này, cũng thường thấy những vị Thầy âm thầm hơn, gần gũi hơn với người mình dạy dỗ. Đó là những bà mẹ dạy con bước những bước tập tểnh đầu tiên trong đời. Các bà cận kề với con cái, kiên nhẫn chỉ bảo con cái cách ăn nết ở, dạy con biết ứng xử cho phải đạo với kẻ trên người dưới, biết phân biệt điều tốt điều xấu, biết sống ngay chính thật thà, yêu thương người nghèo khó, nói tóm lại là các đức tính nhân bản cần thiết cho cuộc sống làm người.


Đức Maria cũng là một người mẹ. Vai trò chủ yếu của Đức Maria là làm mẹ. Thiên Chúa yêu cầu Người làm Mẹ Chúa Kitô và làm Mẹ Hội Thánh. Và Mẹ đã “xin vâng” để cho thánh ý Chúa được hiện thực. Và nếu Đức Maria đã đảm nhận chức vụ làm Mẹ thì thiên chức ấy cũng bao hàm nhiệm vụ làm thầy. Trong ý nghĩa ấy, Đức Maria là Thầy dạy, là Mẹ dạy con, là Đấng chỉ bảo đàng lành. “Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).


Đức Maria không đứng trên bục giảng để dạy. Mẹ dạy bằng chính đời sống rất mực thánh thiện của Mẹ. Lời dạy của các bà mẹ thường đem lại hiệu quả cao, vì lời dạy của các bà mẹ luôn gắn liền với đời sống đạo đức và đặc biệt phát xuất từ trái tim yêu thương từ mẫu của họ.


Như thế, chủ đề Đức Maria, Nhà giáo dục đức tin mời gọi chúng ta chiêm ngắm Mẹ trong kỳ Đại Hội Thánh Mẫu toàn quốc lần thứ 28 này. Chủ đề này đặt Đức Maria trong tương quan với Hội Thánh, tiếp theo sau chủ đề Đức Maria, Người Nữ Thánh Thể, đặt Đức Maria trong tương quan với Chúa Kitô. Tương quan giữa Đức Maria với Hội Thánh là tương quan “Mẹ - Con”. Tương quan điển hình kiểu mẫu. Mỗi người con Mẹ điều có thể học nơi trường của Mẹ những nhân đức sáng ngời đã chi phối đời sống trần gian của Mẹ. Nhờ Mẹ đồng hành chỉ giáo, chúng ta hy vọng sẽ hoàn tất tốt đẹp cuộc lữ hành đức tin của chúng ta và đạt tới Quê Trời mong ước.


Chúng ta sẽ lần lược học nơi Mẹ những bài dạy phát xuất từ kinh nghiệm sống của Mẹ.


1. Đức Maria Thầy dạy đức tin, đức cậy và đức mến.

2. Đức Maria, Thầy dạy lắng nghe và thực hành Lời Chúa.

3. Đức Maria, Thầy dạy quảng đại cọng tác vào công trình cứu rỗi của Đức Kitô.


BÀI 1: ĐỨC MARIA, THẦY DẠY ĐỨC TIN, ĐỨC CẬY VÀ ĐỨC MẾN


Đức tin, đức cậy và đức mến là 3 nhân đức đối thần nghĩa là quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa, làm cho người tín hữu có khả năng tiếp cận với Thiên Chúa, hành động như con cái Thiên Chúa và thông phần bản tính Thiên Chúa (xem Giáo Lý HTCG số 1812-1813). Không ai sống mật thiết gắn bó với Thiên Chúa cho bằng Đức Mẹ. Công Đồng Vatican II đã không ngần ngại dùng những tước hiệu: “Ái nữ của Chúa Cha, Mẹ Con Thiên Chúa và Cung Thánh của Chúa Thánh Thần” (L.G. số 53). để diễn tả mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa Ba Ngôi với Đức Mẹ. Chính đức tin, đức cậy và đức mến đã giúp Mẹ gắn bó mật thiết với Thiên Chúa Ba Ngôi.


1. Đức Maria, Thầy dạy đức tin.


Sách Giáo Lý HTCG định nghĩa đức tin như sau: “Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những gì Người nói và mặc khải cho chúng ta cũng như những gì Hội Thánh dạy phải tin, vì Thiên Chúa là Chân Lý” (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 1814). Một khía cạnh khác của đức tin cũng cần được lưu ý: đó là việc gắn bó với Thiên Chúa một cách tự do (xem D.V 5).


Trong biến cố Truyền Tin và trong suốt cả cuộc sống trần thế, Đức Maria đã thể hiện một cách hoàn hảo cả 2 nội dung ấy của đức tin. Vì tin vào Chúa mà Đức Maria đã cúi đầu ưng thuận lời đề nghị bất ngờ và choáng váng của Thiên Chúa. Mẹ vui lòng chấp nhận ý định của Thiên Chúa, một ý định táo bạo làm đảo lộn các dự tính riêng tư của Mẹ. Người thôn nữ làng Nazarét không còn yên phận trong thế giới bé nhỏ của mình, nhưng phải trao thân gởi phận cho Đấng Toàn Năng muốn thực hiện công trình vĩ đại của Ngài là cứu rỗi mọi người. Cũng như ngày xưa, Abraham đã phải từ bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi mà ông không biết, thì ở khởi điểm của một dân mới, Mẹ Maria cũng phải từ bỏ cuộc sống riêng tư để lao mình vào trong cuộc hành trình đầy phiêu lưu bất ngờ của Thiên Chúa. “Này tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời Thần Sứ nói”( Lc 1,38).


Lời phát biểu đầy khiêm tốn và vâng phục này diễn tả tâm hồn của Mẹ, một tâm hồn luôn tin vào Chúa là Đấng Chân Thật Vô Song, đồng thời cũng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Mẹ. Từ nay, Mẹ luôn gắn bó với Đấng mà Mẹ sẽ sinh ra cho thế gian. Mẹ liên kết số phận của mình với số phận của Con Mẹ, lời tiên tri Simêon đã chứng thực điều ấy: Con Mẹ sẽ trở nên dấu hiệu bị chống đối, còn Mẹ, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn ( xem Lc 2,35). Chiêm ngắm Mẹ liên kết làm một với Chúa Giêsu, Công Đồng Vatican II cũng dạy: “Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, vì không một tội nào ngăn trở Ngài, Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thể và sự nghiệp của Con Ngài và nhờ ân sủng của Thiên Chúa Toàn Năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc, dưới quyền và cùng với Con Ngài” (L.G. số 56). Qua đó, chúng ta hiểu được Công Đồng Vatican II muốn trình bày Đức Maria như là mẫu gương của lòng vâng phục và quảng đại cọng tác với Chúa Giêsu trong công trình cứu rỗi. Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa Giêsu đều có sự cọng tác tích cực của Mẹ. Vì tin, Mẹ đã ra đi khỏi thế giới của mình để lao mình vào thế giới của Thiên Chúa. Nhờ tin mà Mẹ đã được Chúa Thánh Thần chúc phúc qua miệng bà Êlisabeth: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì đã nói với em”(Lc 1,45).


Bằng chính đời sống dấn thân phục vụ Chúa Giêsu và công trình cứu rỗi của Ngài, Mẹ Maria đã tỏ ra là Thầy dạy Đức tin ưu tú nhất. Mẹ dạy chúng ta tin vào Chúa: là tín thác vào Chúa đi theo đường lối Chúa và cọng tác với Chúa để đem lại ơn cứu rỗi của Chúa cho mọi người.

 

2. Đức Maria, Thầy dạy đức cậy.


“Đức cậy là nhân đức đối thần nhờ đó chúng ta khao khát Nước Trời và sự sống vĩnh cửu như hạnh phúc đời mình, khi tin tưởng vào các lời hứa của Đức Kitô và phó thác vào ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần, chứ không dựa vào sức mình” ( Giáo Lý HTCG số 1817).


Nhờ tin vào lời hứa của Đức Kitô mà các Thánh tử đạo Việt Nam đã kiên tâm chịu gian nan thử thách, nhờ tin vào Thiên Chúa, Đấng có quyền năng cho kẻ chết sống lại, mà Abraham đã hiến tế Isaac dù đã nhận được Lời Hứa, ông vẫn hiến tế người Con một ( Dt 11,17). Ơû ngọn nguồn của Dân tuyển chọn, Abraham đã chiếu sáng niềm hy vọng, Thánh Phaolô đã ca tụng lòng trông cậy của ông bằng những lời lẽ rất sâu sắc: “Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm 4,18).


Có một tương quan mật thiết giữa đức tin và đức cậy: Có tin mới hy vọng - trông đợi. Trong thông điệp mới của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI: “Chúng ta được cứu rỗi nhờ hy vọng”. Ngài viết: “Hy vọng là một từ chủ yếu trong Thánh Kinh, đến mức trong nhiều đoạn, những từ “đức tin và hy vọng” dường như có thể hoán chuyển cho nhau” (Spe Salri số 2).


Đức tin của Abraham đã dẫn đưa tổ phụ đến một lòng trông cậy tuyệt đối vào Thiên Chúa thế nào, thì đức tin của Mẹ Maria cũng dẫn đưa Mẹ đến một niềm cậy trông như thế. Cũng như Abraham, Mẹ đã bước đi trong đêm tối mịt mù của đức tin, đã đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu, đã cùng với Ngài tiến lên đồi Canvê để hiến tế cùng với Con trong niềm hy vọng vững vàng là ơn cứu độ sẽ tràn trào xuống cõi nhân sinh.


Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã nói về đức cậy của Mẹ Maria như sau: “Đức Maria đã trở thành mẫu gương đức cậy cho Hội Thánh. Khi nghe sứ điệp của thiên sứ, Đức Maria là người đầu tiên đã hướng niềm hy vọng về Vương Triều bất tận mà Đức Giêsu đã đến để khai mào. Đức Maria đã kiên trì đứng gần Thập Giá của Con mình, trong niềm trông mong Lời của Chúa được thực hiện – sau ngày Lễ Ngũ Tuần, Thân Mẫu Đức Giêsu nâng đỡ niềm hy vọng của Hội Thánh, đang bị đe doạ bởi những cuộc bách hại. Vì vậy đối với cộng đoàn các tín hữu và đối với từng tín hữu, Đức Maria là Mẹ của niềm cậy trông, khuyến khích và hướng dẫn con cái mình trong niềm mong chờ Nước Chúa, nâng đỡ họ trong những cuộc thử thách hằng ngày ở giữa những tình huống lắm khi bi đát của lịch sử” (những bài huấn giáo về Đức Maria trang 232).

Bây giờ, trong vinh quang thiên quốc “Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho Dân Chúa đang lữ hành” (L.G số 68).


Theo gương Mẹ, chúng ta ngóng trông về ơn cứu độ của chúng ta trong Đức Kitô, sẽ được mặc khải cho chúng ta trong ngày sau hết.


3. Đức Maria, Thầy dạy đức mến.


Sách Giáo Lý HTCG dạy: “Đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người thân cận như chính mình” (số 1822)


Nếu tội nguyên tổ làm cho con người dễ dàng hướng chiều về sự dữ, thì đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội mà Chúa trang điểm cho người nữ được tiền định làm Mẹ của Con Một Chúa nhất thiết phải hướng lòng Mẹ về cội nguồn của Sự Thiện. Mẹ yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, vì thế Mẹ đã từ bỏ mọi sự để đi theo tiếng gọi của Chúa. Mẹ đã để cho Chúa yêu thương Mẹ và dẫn đưa Mẹ bước đi trên đường yêu thương nhiệm mầu của Chúa.


Lời “xin vâng” trong biến cố Truyền Tin luôn chi phối đời sống của Mẹ cho đến khi đứng dưới chân Thập Giá của Chúa Giêsu Con Mẹ. Tiếng xin vâng nhiều khi không thốt nên lời, nhưng đã tỏa sáng con người của Mẹ, và là bằng chứng tuyệt hảo của tình mến sắt son và tuyệt đối dành cho Thiên Chúa. Thánh sử Luca trong chương 2 Phúc Âm của Ngài, đã 2 lần nói tới thái độ nội tâm của Đức Maria: “Còn bà Maria, thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (2,19). Riêng Mẹ Người, thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (2,51). Thái độ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại là thái độ của một tâm hồn yêu mến. Mẹ yêu mến Chúa, nên Mẹ luôn gìn giữ các kỷ niệm và lời Chúa dạy, để đối chiếu, làm cho đời sống Mẹ luôn phù hợp với ý Chúa.


Biến cố thăm viếng và tiệc cưới Cana cũng là những chứng tích hùng hồn cho tình yêu của Mẹ đối với Chúa. được Chúa yêu thương và đến ở trong lòng như ngày xưa trong khám Giao Ước, Mẹ đã không giữ Chúa cho riêng mình, mà vội vã đem chia sẽ niềm vui ơn cứu độ cho người chị họ đang mang thai, dù đường xá xa xôi cách trở. Đây là bằng chứng tình yêu cao độ, vì không có gì quý giá hơn là mang Chúa đến cho kẻ khác.


Trong tiệc cưới Cana, Mẹ không chỉ tham dự như một người khách bàng quan, Mẹ hiện diện ở đó để nhìn xem nhu cầu của nhà cưới và sẵn sàng can thiệp đúng nơi đúng chỗ, đúng thời đúng lúc. Nhờ Mẹ can thiệp mà tiệc cưới hôm ấy khỏi mất vui và nhà cưới khỏi bẻ mặt xấu hổ.


Sau khi Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng hiện diện giữa cọng đoàn Giáo hội sơ khai để cầu xin ơn Chúa Thánh Thần xuống trên cọng đoàn tín hữu còn non trẻ này. Ơn Chúa Thánh Thần là hồng ân quí báu nhất của Thiên Chúa. ( Lc 11,13).


Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói về sự hiện diện của Mẹ trong lòng Giáo hội sơ khai như sau: “Nơi Đức Maria, Hội thánh nhận ra khuôn mẫu của đức mến, khi nhìn đến cọng đoàn các tín hữu tiên khởi, chúng ta nhận thấy sự đồng tâm hiệp ý được biểu lộ trong lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống, được gắn liền với sự hiện diện của Đức Trinh Nữ rất thánh. (Cv1,14). Chính nhờ đức Maria mà sự hoà hợp và tình yêu thương huynh đệ có thể được duy trì mãi mãi trong nội bộ Hội thánh” (Những bài huấn giáo về Đức Maria trang 232).


Kết.

Đức Maria là Thầy dạy đức tin đức cậy và đức mến trong ý nghĩa Mẹ là mẫu gương của Giáo hội trong thiên chức làm mẹ. Công đồng Vatican II đã muốn cho Giáo hội chiêm ngưỡng Đức Maria và hoạ lại nơi mình dung mạo thiêng liêng của Đức Mẹ. “Noi gương Mẹ Chúa mình, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo hội bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy vững bền và một đức mến chân thành” (L.G số 64).


Mỗi người tín hữu Kitô là con Mẹ Maria, cũng hãy siêng năng chiêm ngưỡng sự thánh thiện của Mẹ mình, được biểu lộ qua đời sống tin cậy mến để được tháp nhập vào trong sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.

Mục lục

 

CÂU CHUYỆN SUY TƯ

BỨC HỌA “ĐÔI BÀN TAY”

 

“Đôi bàn tay” là một trong những bức tranh được ưa chuộng nhất của Albrecht Durer(1471-1528)nhờ câu chuyện cảm động giữa hai anh em nhà Durer.

 

Hơn 500 trước, trong một ngôi làng nhỏ gần Nuremberg (Đức) có một gia đìng nghèo di cư từ Hungary tới với 18 đứa con. Để nuôi ngần ấy đứa, người cha phải gằm mặt 18 tiếng mỗi ngày bên ngọn lửa thợ bạc, người mẹ mỗi ngày chực chờ hàng xóm kêu sang giao việc để có thêm ít bột nướng bánh cho đàn con. Dẫu sống trong cảnh nghèo khó, hai đứa con trai lớn của gia đình Durer tên Albert và Albrecht vẫn ôm ấp ước mơ trở thành những họa sĩ.

 

Tuy biết con trai mình rất có năng khiếu nhưng người cha đành thở dài, vì ông không thể nào đủ tiền gửi các con tới Nuremberg ăn học tại Viện Hàn lâm nghệ thuật. Nhưng hai cậu trai đã lớn và chúng quyết thực hiện ước mơ của mình. Sau những đêm dài bàn cãi, cuối cùng hai anh em đồng ý sẽ nhờ vận may rủi phán quyết. Một đồng tiền được tung lên. Người thua sẽ phải vào làm việc tại một hầm mỏ gần Nuremberg lấy tiền nuôi người thắng cuộc học vẽ. Sau 4 năm, anh em nhà Durer sẽ đổi chỗ cho nhau. Người thành tài trước sẽ nuôi người anh em mình anh học bằng cách bán tranh, thậm chí đi làm thợ mỏ nếu thất bại trên đường nghệ thuật.

 

Một sáng chủ nhật nọ, sau khi thắng cuộc Albrecht Durer lên đường đi Nuremberg, Albert cũng khăn gói xuống mỏ sâu xin việc. Trong suốt 4 năm sau đó, tấm gương khổ học của Albrecht khiến cả học viện nghệ thuật sững sờ. Tranh của cậu được chính những người thầy dạy cậu trầm trồ ngưỡng mộ.Mặc dù chưa tốt nghiệp nhưng tranh của  Albrecht được bán với giá khá cao.

 

Ngày chàng họa sĩ trẻ trở về quê, gia đình Durer tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn đầy ắp tiếng nhạc với tiếng cười vui vẻ. Tiệc đang vui chợt Albrecht cầm ly rượu đứng lên đề nghị tất cả mọi người có mặt nâng cốc cảm ơn anh trai Albert, người đã hi sinh vì sự nghiệp của em. “Bây giờ, đến lượt anh rồi đấy, Albert. Anh sẽ đi Nuremberg học và em sẽ lo tất cả mọi thứ cho anh”, Albrecht nói. Hết thảy mọi người quay về phía Albert. Người anh trai ngồi đó, mặt nhợt nhạt, nước mắt ứa ra. Anh khẽ lắc đầu, giọng nghẹn lại: “Không…không thể…”.Albert đứng dậy, chìa hai bàn tay ra: “Không em trai ạ. Anh không thể đi Nuremberg được nữa rồi. Bốn năm quần quật dưới lòng đất đã bẻ gãy từng đốt xương của anh. Các ngón tay anh bị thấp khớp, co quắp đến mức anh không thể cầm ly chúc mừng em nói gì đến cầm cọ vẽ. Cảm ơn em nhưng…nhưng muộn quá rồi!”.

 

Sau này, khi khi đã trở thành một trong những họa sĩ Đức vĩ đại thời Phục Hưng, để ghi nhớ sự hi sinh tận tụy của anh trai, Albrecht Durer đã vẽ hai bàn tay chắp lại của Albert với những ngón tay gầy guộc xương xẩu và sứt sẹo. Albrecht Durer đặt tên cho bức tranh là “Đôi bàn tay” 

 

Hoàng Vũ ( sưu tầm)

Mục lục

 

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

Giáo dục gia đình :

 

BỐ VÀ CON

 

Nhiều bậc cha mẹ có con bước vào tuổi thiếu niên, khoảng 11-13 tuổi, vẫn coi con mình còn nhỏ dại và thường tự nhận mình am hiểu tất cả mọi suy nghĩ của con, chúng muốn gì, tính tình của chúng ra sao. Điều đó cũng dễ hiểu với lứa tuổi này, các cháu vẫn được cha mẹ chở đi ăn sáng rồi đến trường. Tan trường đón con về. Trong hoàn cảnh mỗi gia đình chỉ có tứ 1 đến 2 con thì việc chăm lo cho nhu cầu vật chất, vui chơi giải trí và việc học hành không phải là gánh nặng như những gia đình thuộc thế hệ trước. Chính từ suy nghĩ con cái vẫn còn thơ dại, chưa hiểu biết gì nhiều về cuộc sống xã hội, kể cả những sinh hoạt trong gia đình, nên nhiều bậc cha mẹ đã không cẩn trọng trong sinh hoạt đời thường khiến con cái có cái nhìn ngờ vực, thậm chí hoang mang về bố mẹ mình. Con cái tuổi này nghĩ gì về bố mẹ?

 

Cô giáo Mai dạy lớp 6 một trường THCS đưa cho tôi xem một bài viết của một em học sinh lớp cô dạy. Đây là bài tập làm văn số 6 có đề tài : “Em hãy viết một bài văn, tả người thân yêu nhất với mình”. Nói chung bài viết của em tả về người mẹ, trong đó có đoạn : “Mẹ em rất vất vả vì em, nhất là những lúc em bị ốm. Càng thương mẹ bao nhiêu em lại càng thấy chán bố em. Bố hay đưa các chú về nhà ăn uống rồi để mẹ phải dọn dẹp, có hôm em đã ngủ được một giấc mà mẹ vẫn phải chờ để đóng cửa nhà…”Chắc hẳn em học sinh lớp 6 ấy mới chỉ “chán” chứ chưa đến nỗi ‘ghét” hay “nghỉ chơi” với bố mình. Từ một sự kiện xem ra bình thường của người cha cũng dẫn đến những nhận xét rất thành thực của đứa con mới 11 tuổi.

 

Em Đ. học sinh lớp 7, học yếu, thường xuyên không thuộc bài. Cô giáo gọi em lên nhắc nhở “dọa” sẽ đến tận nhà để thông báo cho bố em biết (thường thì giáo viên hay nghĩ người bố lo việc học của con hơn là mẹ). Em thản nhiên thưa lại với cô “Thưa cô, cô có đến cũng chẳng gặp được bố em đâu” . Cô giáo ngạc nhiên hỏi lại “Vậy bố em đi làm ở đâu? Khi nào mới có ở nhà”. Em rất vô tư : “Bố em chả làm gì cả, suốt ngày chỉ đi chơi”. Cô giáo đành lắc đầu cho em về chỗ. Khoan nói về biện pháp mà cô giáo phải có để giáo dục em về sau, chỉ nguyên việc em thưa với cô về bố của mình cho thấy con cái chúng ta hôm nay có cái nhìn thế nào về cha mẹ. Có thể bố của em Đ. cũng có đi làm gì đó , “cò” nhà đất chẳng hạn hay dịch vụ môi giới…nhưng dưới con mắt của em, mẹ thì sáng ra chợ bán hàng, bố thì sáng ra là đi.. thì chỉ có đi chơi. Đã bắt đầu có cái nhìn không trong sáng của con cái về người cha.

 

Thanh là một học sinh đang học lớp 8 một Trường chuyên nổi tiếng trong thành phố mà người viết được nghe thầy giáo em tại nhà kể lại : ‘Ông biết không, gần thi học kỳ II, mình thì ra sức dây mà trò thì cứ than thở :

 

Học hành thi cử mà chi

Tú Xương còn rớt há gì chúng ta

 

Nghe vừa giận, vừa tức cười. Hỏi trò lấy mấy câu thơ ấy ở đâu, trò chẳng dấu giếm tâm sự với thầy về chuyện…nhà.Thì ra bố em là cán bộ được cử đi học tại chức, em kể : “Ổng” đi học gì mà về em chẳng thấy bao giờ mở sách ra học bài. Cứ chiều thứ bảy nghỉ là mấy bạn của bố đều đi với bố, chở em lên nhà mấy thấy dạy “nhậu”, mỗi lầm đem đến mấy thùng bia. Mấy chú vừa nhậu vừa hát, đàn ca rồi đọc thơ nên em nghe riết cũng thuộc bài luôn…”

 

Những mẩu chuyện ghi lại trên đây đều có thật, đang diễn ra ở các gia đình mà con cái mới chỉ 10, 13 tuổi. Mong rằng các bậc làm cha mẹ nên có cái nhìn đúng mức về con cái mình. Lứa tuổi này các em vẫn coi cha mẹ là những thần tượng đáng kính, nhưng nếu có những việc làm chưa đúng hay gây ngộ nhận, cha mẹ cần phải điều chỉnh. Hoặc cách nào đó để các cháu an tâm học hành và lớn lên trong vòng tay cha mẹ, đừng để như một câu chuyện tiếu lâm truyền miệng. Bố sai con đi mua rượu mà không đưa tiền lại còn khen con “có tiền mua rượu là thường, không có tiền mua rượu mới hay”(ý nói là đi mua thiếu). Con trở về với chai không và “khen” lại bố : “Người ta nói có rượu mà mà uống là thường, không rượu uống được mới hay” . Lúc đó thì không biết là có còn bố và con ?

 

Phan Xa Minh

Mục lục

 

Giảng lễ Hôn Phối :

Đ Ô I Đ Ũ A

Đũa đã thành đôi (tục ngữ)

I. LỜI CHÚA.

St 1,27 :  Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình.

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa.

Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.

St  2,24 : Bởi thế,  người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.

Mc 10,6-9 : Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; bởi thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.

II.  HÔN NHÂN VÀ BỮA ĂN.

        Khi người nam và người nữ kết hợp với nhau bằng giao ước hôn nhân, họ chính thức tạo lập một gia đình.  Đây là ngày vui và đáng ghi nhớ nhất trong đời họ. Người ta tổ chức tiệc cưới mừng cho đôi tân hôn. Bữa ăn được tổ chức khác nhau tùy theo phong tục từng dân tộc, từng địa phương. Trong bữa ăn, người ta dùng phương tiện nào để ăn cơm ?

        * người Tây phương dùng xiên muỗm.

        * Người Ấn độ hay dùng tay để bốc cơm cà ri.

        * Người Á đông, nhất là Việt nam, người ta dùng đôi đũa để ăn cơm.

        Đây là kiểu ăn đặc thù của người Việt.  Dùng đũa thì bao giờ cũng dùng đôi, không bao giờ dùng một chiếc. Dùng đũa là cả một nghệ thuật : cách cầm đũa phải nhẹ nhàng, khoan thai, dẻo dai . Khi gắp món ăn cũng như lúc và cơm, đôi đũa hoạt động nhịp nhàng, cả hai cùng giúp nhau để gắp thức ăn cũng như và cơm.  Việc đôi đũa hoạt động hỗ tương nhau làm cho tôi liên tưởng đến sinh hoạt của vợ chồng.. Đũa bao giờ cũng có đôi, một chiếc đũa không thể gắp, không thể và cơm được, chỉ còn cách là chọc món ăn thôi.

III. TẢN MẠN VỀ ĐÔI ĐŨA.

        Khi người thanh niên đến tuổi yêu đương, bao giờ cũng chọn cho mình một người yêu. Sau khi đã tìm hiểu nhau, ưng ý nhau và hứa hẹn lấy nhau, thời gian này người ta dùng một từ ngữ bóng bảy là “đũa đã thành đôi” (tục ngữ).

        Tìm hiểu câu tục ngữ “đũa đã thành đôi” trên, chúng ta có một số ý nghĩ về mối tương quan giữa “đôi đũa và vợ chồng”.

        1. Đũa phải có đôi.

        Câu tục ngữ trên đã nói lên tư tưởng này : dùng đũa thì bao giờ cũng phải dùng đôi, không thể dùng một chiếc để gắp thức ăn cũng như và cơm. Nếu chỉ dùng một chiếc đũa thì chỉ có thể chọc được thức ăn chứ không thể gắp được cái gì.  Khi bà mẹ chồng quá khắc nghiệt với con dâu, nàng dâu phải nói lên lập trường của mình một cách quyết liệt :

                        Chồng thương chẳng nệ chi ai,

                        Đũa bếp cho dài, gắp cổ mụ gia.

                                (ca dao)

        2. Hai chiếc đều nhau, không so le.

        Đũa có thể to nhỏ, dài ngắn nhưng luôn luôn phải bằng nhau. Nếu một chiếc to, một chiếc nhỏ, chiếc dài chiếc ngắn thì rất khó gắp.  Điều này có ý nói : vợ chồng là bạn đường, ngang hàng, cùng đồng hưởng ơn ban sự sống. Tránh cái quan niệm lệch lạc xa xưa như “chồng chúa vợ tôi” hoặc như quan niệm của Nho gia ngày xưa “phu xướng phụ tùy”, chồng nói thì vợ phải làm theo, không được có ý riêng. Người ta coi người phụ nữ là thứ yêu, chỉ như một người tôi tớ được mẹ cha mua về :

                        Con gái là của người ta,

                        Con dâu mới thực mẹ cha mua về.

                                (ca dao)

        Chính vì thế, trong cảnh sống” chồng chúa vợ tôi” người phụ nữ chỉ còn than thân trách phận hay trách cha mẹ đã gả bán cho người ta mà không nghĩ đến số phận con gái :

                        Mẹ tôi tham thúng xôi dền,

                        tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.

                        Tôi đã bảo mẹ rằng đừmg,

                        mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.

                        Bây giờ kẻ thấp người cao,

                        như đôi đũa lệch so sao cho vừa.

                                (ca dao)

        3. Hai chiếc đũa phải xuôi chiều.

        Chiếc đũa có hai đầu, đầu lớn và đầu nhỏ. Người ta gắp bằng đầu nhỏ. Nếu gắp bằng một đầu lớn và một đầu nhỏ thì rất khó. dễ để rơi thức ăn. Đây là trường hợp của đôi vợ chồng sống trong cảnh “ông nói gà bà nói vịt”, mỗi người một ý, không ăn khớp với nhau, gây lộn xộn trong gia đình :

                        Sống mỗi người một nết,

                        Chết mỗi người một tật.

        4. Hai chiếc phải thẳng và đều.

        Đôi khi có thể xẩy ra, một chiếc đũa thẳng, một chiếc đũa cong làm cho việc gắp thức ăn không chuẩn.  Đây là trường hợp của đôi vợ chồng không trung thực với nhau, người ta lén lút đi ngang về tắt, người ta xé rào, người ta có những mối tình trộm vụng bất chính. Nên người ta nói :

                        Chồng ăn chả, vợ ăn nem,

                        Đứa ở có thèm mua thịt mà ăn.

                                (ca dao)

        5. Giữ cho đũa khỏi mốc.

        Ăn xong ngày nào cũng phải rửa, phải phơi khô, nếu không đũa sẽ bị mốc.  Đó là khi vợ chồng không để ý đến nhau, mỗi người nhìn một hướng, không biết lo cho hạnh phúc của nhau, họï sống ích kỷ chỉ biết lo cho bản thân mình.  Hoặc họ chỉ biết sống cô độc như anh chàng Narcisse trong thần thoại Hy lạp.  Vì thế người ta khuyên vợ chồng :

                        “Hãy rửa tội cho tình yêu mỗi buổi sáng

                         và hãy cưới lại nhau mỗi ngày”.

          6. Giữ cho đũa khỏi mọt.

        Phải giữ đũa trong tình trạng tốt, đừng để bị mọt. Trong gia đình không thể tránh được cảnh “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, có thể xẩy ra những sự bất hoà bùng nổ hay ngấm ngầm.  Sự bất hòa ngấm ngầm rất nguy hiểm, nó cứ âm thầm gậm nhấm tình yêu vợ chồng, mỗi ngày cứ lạnh nhạt dần và có thể trở nên một cuộc chiến tranh lạnh :

                        Lạnh lùng thay láng giềng ơi,

                        Láng giềng lạnh  ít, sao tôi lạnh nhiều.

                                (ca dao)

        7. Giữ cho đũa khỏi bị gẫy.

        Đôi lúc khách đang gắp thức ăn mà đũa bị gẫy thì cảm thấy hơi bị quê, vì đũa làm bằng nhựa rất dòn.  Trường hợp này đã từng xẩy ra.   Ngày nay ta thấy các gia đình lỏng lẻo rất nhiều. Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II nói :”Gia đình là nền tảng của xã hội”.  Nếu nền tảng đã lung lay thì xã hội làm sao đứng vững được. Nhiều nơi có tới 50% hay có nơi tơi 70% các đôi hôn nhân ly dị.  Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn thì tương lai nhân loại sẽ ra sao ?  Người ta cứ thản nhiên nói :

                        Đồng tiền chiếc đũa chia ly,

                        Thiếp đi theo thiếp, chàng đi đường chàng.

                                      (ca dao)

KẾT LUẬN

        Chúng ta vừa cùng nhau bàn về đôi đũa với một số suy nghĩ về cuộc sống vợ chồng.  Hôm nay hai anh chị có thể nói là

                        Đôi ta làm bạn thong dong,

                        Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.

                                       (ca dao)

       

        Hãy cố sao giữ cho đôi đũa ấy luôn nguyên vẹn để làm cho bữa ăn trong gia đình được ngon miệng, thêm sức khỏe để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Và chúng ta hãy cầu nguyện :

        Lạy Chúa, khi tạo dựng loài người có nam có nữ, Chúa đã muốn cho cả hai nên một. Hôm nay là ngày lễ thành hôn của anh... và chị...   Xin cho họ được trọn tình vẹn nghĩa với nhau và biết mở rộng lòng yêu thương mọi người để làm chứng cho tình yêu vô biên của Chúa.

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Mục lục

 

ĐỌC SÁCH

 

 

MẦU NHIỆM MÂN CÔI

 

Năm Sự Thương

 

Mầu nhiệm thứ nhất : Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu

 

Tối Thứ Năm hôm ấy, sau bữa Vượt Qua, Chúa và mười một Tông đồ đến vườn Cây Dầu nghỉ đêm.

 

Mười Một Tông đồ ngủ lăn lóc. Ngủ như chết. Chỉ có người mười hai không ngủ, đó là Giuđa đang bận cấu kết với địch để bắt Thầy.

 

Chúa thì thức một mình, cầu nguyện một mình. Không ai chia sẻ, kể cả Gioan môn đệ thân tín nhất.

 

Đức Giêsu phủ phục trên mặt đất, mồ hôi đầm đìa. Cô đơn quá chừng ! Ba lần Người đến gặp các Tông đồ, đánh thức các ông, năn nỉ các ông thức và cầu nguyện với Người. Vô ích. Nước đổ đầu vịt. Các ông ấy vẫn cứ ngủ khò. Vô tình, vô tình.

 

Môn đệ thân tín thì như thế đó; vô tâm, vô tình. Còn Giuđa thì trời ơi đất hỡi: một tên phản bội. Hắn chỉ thích tiền. Tình nghĩa, tình thầy trò chỉ là công cụ để kiếm tiền. Thương hắn bao nhiêu, thì đau khổ bấy nhiêu.

 

Có một giây phút nào đó, Chúa cảm thấy cô đơn quá chịu không nổi, nên đã thốt ra một câu nghe như mệt mỏi lắm rồi, đuối sức lắm rồi : “Lạy Chúa,, nếu được thì xin cho Con khỏi uống chén đắng này”.

 

Nhưng vừa nói xong câu ấy, Chúa cảm thấy hối hận ngay và xin Chúa Cha hãy từ chối nguyện vọng ấy : “Xin đừng theo ý Con mà chỉ theo ý Cha thôi”.

 

Khổ lắm, khổ lắm, nhưng xin chấp nhận, để Ý của Chúa Cha được thể hiện, không xin nữa. Nếu xin thì chỉ là “đừng theo ý Con”, chỉ là “theo ý Cha mà thôi”.

 

Mẹ yêu dấu.

 

Con của Mẹ đang phủ phục trong vườn Cây Dầu, mồ hôi đầm đìa, chỉ vì buồn quá. Buốn quá vì người thân thì vô tâm vô tình, thậm chí có kẻ phản trắc coi tình thầy – trò như nước lã. Buồn vì cả một cơ chế tôn giáo đang đi sai mà quyết tâm không sửa lại. Buồn vì một đêm đày đọa sắp tới. Buồn vì đã linh cảm được cây khổ giá trên Núi Sọ của trưa hôm sau

 

Thưa Mẹ, lúc ấy Mẹ đang ở đâu ? Mẹ đang làm gì ? Mẹ có linh cảm được những nỗi khổ đau ấy của người con yêu dấu ấy không ?

 

Con không tìm được một lài liệu nào trong bốn cuốn Tin Mừng. Cũng không có một thông tin nào từ các Giáo phụ và khẩu truyền. Đáng tiếc vô cùng. Nhưng vì yêu mến Mẹ và Con của Mẹ, con vẫn cố gắng mò mẫm để vừa thấy Con của Mẹ đầm đìa mồ hôi, vừa thấy Mẹ cũng đang đầm đìa nước mắt.

 

Có lẽ Mẹ không ở nhà chị Matta tại Bêtania. Nhà ấy đang bối rối, vì công nghị đã quyết tâm thanh toán Ladarô. Có lẽ Mẹ tạm trú tại nhà bà Maria, mẹ của Máccô. Từ đó Mẹ thấy Con của Mẹ cùng mười một Tông đồ đi về hướng núi Cây Dầu. Từ ngôi nhà này Mẹ cũng nghe được phong phanh Giuđa đang làm gì để bắt Con của Mẹ. Cũng từ ngôi nhà quý phái này Mẹ được nghe mọi tin tức rò rỉ từ Công nghị. Mẹ nghe được nhiều lắm. Toàn chuyện buồn. Toàn chuyện đau. Có lẽ Mẹ im lặng ngồi một mình ở một góc phòng nào đó để trực cảm được nỗi cô đơn và đau thương của người Con yêu dấu. Chỉ biết thế, nhưng chẳng làm gì được. Lại “xin vâng”, lại phó thác. Vậy thôi.

 

Mầu nhiệm thứ hai : Chúa Giêsu chịu đánh đòn.

 

Đêm Thứ Năm sà sáng Thứ Sáu, Chúa bị hai trận đòn. Trận đòn ở dinh Caipha thì chỉ nhục chứ không đến nỗi đau. Trận đòn ở dinh Phliatô mới thật là khủng khiếp. Khủng khiếp vì một bài toán sai lầm của Tổng trấn Philiatô.

 

Philiatô thấy Chúa không có tội đáng chết. Ông biểu là lãnh đạo Do Thái ghét Chúa và muốn giết Chúa chỉ vì uy tín của Chúa quá lớn có thể gây nguy cơ cho cơ chế của họ. Philiatô tìm cách để cứu mạng Chúa. Ban đầu ông đưa tên đạo tặc Baraba ra thành một cặp với Chúa để cho họ chọn một người ân xá nhân dịp lễ Vượt Qua. Ông tưởng rằng người Do Thái không dám xin ân xá cho Baraba, mà đành phải dành ơn ấy cho Chúa. Philatô lầm, vì họ xin tha Baraba và đòi đóng đinh Chúa.

 

Thấy mình bị hớ, Philatô tung ra ván bài thứ hai. Ông nghĩ rằng nếu đánh Chúa một trận đòn thiếu sống thừa chết thì chắc người Do Thái thỏa mãn và bằng lòng cho Chúa sống. Vì thế trận đòn này thật là khủng khiếp. Càng đau đớn chừng nào, càng hy vọng sống chừng nấy.

 

Chúa bị đánh tới mức độ không còn hình dạng một con người nữa. Phải nói rằng thân xác của Chúa chỉ còn là một đống thịt tắm máu. Chính Philatô đã đưa cái bị thịt tắm máu ấy ra trước mặt người Do Thái rồi nói một cách mỉa mai rằng : “ Đây là người”. Nghĩa là không còn là người nữa.

 

Philiatô lại lầm một lần nữa. Trận đòn ân nghĩa của ông trở thành ai oán cho người mà ông muốn. Người Do Thái vẫn cứ đòi đóng đinh Chúa. Thế là Philatô trao nộp Chúa cho họ đem đi đóng đinh.

 

Mẹ yêu dấu.

 

Khi Con của Mẹ đang bị trận đòn tan nát này, thì mẹ ở đâu ? Con nghi ngờ Mẹ có mặt trước cổng dinh Philatô. Nếu mẹ có mặt và đứng dưới chân Thập giá khi con Mẹ bị hành hình, thì không ai cấm cản mẹ có mặt ở trước dinh Philatô khi con Mẹ bị đánh đòn.

 

Mẹ trà trộn vào đám quần chúng. Có vài người thân thương đứng gần. xung quanh toàn là bọn đầu trâu mặt ngựa. Chúa bị đòn, họ sung sướng hả dạ. Còn Mẹ thì gục mặt vào hai bàn tay. Đau xót quá chừng.

 

Khi Philatô dẫn Chúa ra, máu me đầm đìa. Mẹ liếc nhìn một cái rồi lại gục mặt xuống, khóc nấc lên. Làm Mẹ Đấng Cứu Thế khô quá. Khổ hơn mọi người mẹ trần gian. Có một lưỡi gương sắc cứ đâm mãi vào tim.

 

Nhưng có một điều rất lạ. Mẹ bị khổ suốt dời mà không tuyệt vọng, không hận đời, không hận Giavê. Càng khổ Mẹ càng can đảm. Dường như Mẹ hiểu rằng Mẹ phải khổ với con để sự nghiệp cứu độ của Con được hoàn thành.

 

Con có cảm tưởng rằng Đấng Cứu Thế không phải chỉ có Con của Mẹ, đơn phương cứu đời, đơn phương cứu con, mà Người cứu đời, cứu con, cùng với Mẹ.Và con muốn gọi Mẹ là Đấng Cứu Thế của con nữa. Thưa Mẹ, con nghĩ như thế có đúng không ? Cám ơn Mẹ Cứu Thế của con.

 

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

Mục lục